Trước khi đọc 1
Câu 1 (trang 133, SGK Ngữ Văn 11, tập hai):
Đọc đoạn trích Lại đọc Chữ người tử tù của Nguyễn Tuân, tìm hiểu thêm thông tin về nhà phê bình văn học Nguyễn Đăng Mạnh.
Tìm kiếm thông tin trên sách, báo, internet,...
Chú ý lựa chọn thông tin phù hợp, phục vụ cho việc đọc hiểu.
Cách 1
- Nhà phê bình Nguyễn Đăng Mạnh:
+ Nguyễn Đăng Mạnh sinh năm 1930 ở Nam Định, quê quán tại Gia Lâm, Hà Nội. Ông mất vào năm 2018.
+ Thiếu thời, ông theo học ở trường Chu Văn An, Hà Nội. Khi Cách mạng tháng Tám nổ ra, trường ông học sơ tán lên Phú Thọ, rồi trường bị giải tán. Ông theo học trường trung cấp sư phạm ở Tuyên Quang và bước vào nghề giáo.
+ Năm 1960, Nguyễn Đăng Mạnh được giữ lại trường Đại học Sư phạm Hà Nội làm cán bộ giảng dạy. Từ đó ông bắt đầu viết nghiên cứu và trở thành nhà nghiên cứu phê bình.
+ Ông từng làm chủ nhiệm bộ môn Văn học Việt Nam hiện đại, khoa Ngữ văn, trường Đại học Sư phạm Hà Nội.
+ Nguyễn Đăng Mạnh là chủ biên sách giáo khoa văn học lớp 11 và 12 chương trình cải cách giáo dục 1980–1992.
+ Về già sống tại Thành phố Hồ Chí Minh. Sau một thời gian lâm bệnh, GS Nguyễn Đăng Mạnh đã từ trần vào chiều ngày 9/2/2018 tại Bệnh viện hữu nghị Việt –Xô Hà Nội, hưởng thọ 88 tuổi.
+ Nguyễn Đăng Mạnh được coi là nhà nghiên cứu đầu ngành về văn học Việt Nam hiện đại và được phong tặng danh hiệu Nhà giáo Nhân dân.
- Tác giả Nguyễn Đăng Mạnh:
Nguyễn Đăng Mạnh (1930-2018) quê gốc ở Gia Lâm - Hà Nội, ông được sinh ra ở Nam Định.
Thuở nhỏ, ông theo học trường Chu Văn An – Hà Nội. Đến khi cách mạng tháng 8/1945 nổ ra, trường sơ tán lên Phú Thọ và giải tán. Ông tiếp tục theo học trung cấp sư phạm ở Tuyên Quang rồi từ đây ông bước chân vào nghề nhà giáo.
Năm 1960, sau quá trình học tập ông được giữ lại làm cán bộ giảng dạy tại trường Đại học Sư phạm Hà Nội. Từ đây, ông bắt đầu nghiên cứu văn học va trở thành nhà nghiên cứu, phê bình
Nguyễn Đăng Mạnh là một nhà giáo, một giáo sư, nhà nghiên cứu, nhà phê bình văn học nổi tiếng của Việt Nam. Cả cuộc đời ông đã có những đóng góp to lớn cho nền giáo dục nước nhà. Nhiều tác phẩm nghiên cứu có giá trị về mặt nội dung và nghệ thuật để lại cho thế hệ sau. Các nhân vật như Chủ tịch Hồ Chí Minh, hoặc các tác giả nổi tiếng: Nguyễn Tuân, Tố Hữu, Nguyên Hồng, Xuân Diệu,…đều được ông tái hiện một cách chân thực, gần gũi.
Trước khi đọc 2
Câu 2 (trang 133, SGK Ngữ Văn 11, tập hai):
Liên hệ với những hiểu biết về truyện Chữ người tử tù đã học ở Bài 3 để hiểu văn bản nghị luận này.
Chú ý lựa chọn thông tin phù hợp, phục vụ cho việc đọc hiểu.
- Chữ người tử tù lúc đầu có tên là Dòng chữ cuối cùng được đăng trên tạp chí Tao đàn số 29 vào năm 1938, sau đó được in trong tập Vang bóng một thời và đổi tên là Chữ người tử tù.
- Chữ người tử tù được đánh giá là một trong những thiên truyện xuất sắc nhất của tập sách.
- Nội dung chính: Tác phẩm ngợi ca cái đẹp, trân quý nhân phẩm tốt đẹp của con người không bị môi trường bào mòn, thay đổi.
Trong khi đọc 1
Câu 1 (trang 133, SGK Ngữ Văn 11, tập hai):
Người viết đã nêu vấn đề gì và nhận định như thế nào về vấn đề đó?
Đọc kĩ đoạn 1, đưa ra vấn đề chính được nêu ra và ý kiến của tác giả về vấn đề đó.
Cách 1
- Vấn đề: Thế giới nhân vật của các nhà văn.
- Nhận định: Những nhà văn có phong cách đều tạo ra cho mình một thế giới nhân vật riêng.
Người viết đã nếu vấn đề phong cách của các nhà văn. Ông nhận định: Những nhà văn có phong cách đều tạo ra cho mình một thế giới nhân vật riêng.
Trong khi đọc 2
Câu 2 (trang 134, SGK Ngữ Văn 11, tập hai):
Vì sao tác giả lại cho rằng Chữ người tử tù là “sự chiến thắng của ánh sáng với bóng tối”?
Đọc kĩ đoạn 2, tìm ra câu văn thể hiện lý do của ý kiến.
Cách 1
Vì đó là sự chiến thắng của cái đẹp, cái thiện lương với cái nhơ nhuốc, xấu xa.
Tác giả lại cho rằng Chữ người tử tù là "sự chiến thắng của ánh sáng đối với bóng tối” vì trong tác phẩm đó đã làm nổi bật sự đối lập giữa cái tài, cái đẹp với cái nhem nhuốc tục tằn, của thiên lương đối với cái ác.
Trong khi đọc 3
Câu 3 (trang 134, SGK Ngữ Văn 11, tập hai):
Tác giả đã nhắc đến những biểu hiện nào của các nhân vật để chứng tỏ họ là những người “vô úy”?
Đọc kĩ đoạn 2, tìm ra những biểu hiện của các nhân vật. Hiểu những người “vô úy” là gì?
Cách 1
Những người “vô úy” là những người không sợ điều gì. Những nhân vật như Huấn Cao, viên quản ngục, viên thơ lại đều là những người gan góc, ngang tàng, dám thách thức mọi người.
Huấn Cao: con người "chọc trời khuấy nước”, đến "chết chém ông còn chẳng sợ”.
Viên quản ngục: Gan góc, ngang tàng.
→ Cả hai người đều những con người dám thách thức với những đòn trừng phạt ghê gớm có thể giáng xuống đầu.
Trong khi đọc 4
Câu 4 (trang 134, SGK Ngữ Văn 11, tập hai):
Người viết đã phân tích, làm rõ thêm khía cạnh gì ở các nhân vật trong Chữ người tử tù?
Đọc kĩ đoạn 2, tìm ra những biểu hiện khác ngoài việc không sợ điều gì ở các nhân vật.
Cách 1
Những nhân vật không sợ bất cứ những thế lực những quyền lực giáng xuống khi biết họ cố tình làm sai nhiệm vụ. Nguyễn Tuân đã dạy chúng ta muốn nên người phải biết kính sợ cái tài, cái đẹp và thiện lương trong mỗi con người. Nếu con người mà không sợ điều đó mà còn lăng mạ, giày xéo, e sợ tiền tài, quyền thế thì là những kẻ hèn nhát yếu kém đáng bị ghét bỏ.
Phân tích Chữ người tử tù, không những cần đề cao cái thái độ không biết sợ của Huấn Cao, người quản ngục và viên thơ lại, mà còn phải biết ca ngời cái biết sợ của những nhân vật này.
Trong khi đọc 5
Câu 5 (trang 135, SGK Ngữ Văn 11, tập hai):
Phần 3 thể hiện vẻ đẹp nào của nhân vật viên quản ngục? Từ đó hãy suy đoán về thông điệp mà tác giả muốn thể hiện?
Đọc kĩ đoạn 3, tìm ra những vẻ đẹp của viên quản ngục. Từ đó suy ra nội dung mà tác giả muốn thể hiện.
Cách 1
- Vẻ đẹp:
+ Có những cái cúi đầu làm con người trở nên cao cả…Đó là cúi đầu trước cái đẹp, cái tài và cái thiện lương.
- Nội dung mà tác giả muốn thể hiện: Muốn nên người phải biết kính sợ cái tài, cái đẹp và thiện lương trong mỗi con người.
Phần 3 khẳng định vẻ đẹp trong tâm hồn của nhân vật quản ngục. Cái cúi đầu trước cái tài, cái đẹp, cái thiên lương khiến con người ông trở nên cao cả hơn, lớn lao hơn, sang trọng hơn.
Thông điệp mà tác giả muốn gửi đến là: Con người cũng có lúc phải cúi đầu nhưng hãy chỉ cúi đầu trước cái tài, cái đẹp, cái thiên lương.
Sau khi đọc 1
Câu 1 (trang 135, SGK Ngữ Văn 11, tập hai):
Văn bản trên cho thấy người viết muốn làm sáng tỏ điểm đặc sắc nào về nội dung và nghệ thuật của truyện ngắn Chữ người tử tù?
Đọc kĩ toàn bài, chỉ ra nội dung và nghệ thuật của truyện ngắn.
Cách 1
- Giá trị nội dung:
+ Muốn nhấn mạnh thông điệp về sự chiến thắng của cái đẹp, cái thiện với cái ác.
+ Cho thấy quan niệm thẩm mĩ của Nguyễn Tuân về cái đẹp của con người và nghệ thuật.
- Nghệ thuật:
+ Nghệ thuật xây dựng cốt truyện cùng tình huống truyện và hình tượng nhân vật đặc sắc của tác giả.
+ Sử dụng triệt để các hình ảnh đối lập để làm sáng tỏ quan niệm thẩm mĩ của mình.
Qua văn bản trên, ta có thể thấy người viết muốn làm sáng tỏ điểm đặc sắc về giá trị nội dung của truyện ngắn Chữ người tử từ:
+ Muốn nhấn mạnh thông điệp về sự chiến thắng của cái đẹp, cái thiện với cái ác.
+ Cho thấy quan niệm thẩm mĩ của Nguyễn Tuân về cái đẹp của con người và nghệ thuật.
Qua văn bản trên, ta có thể thấy người viết muốn làm sáng tỏ điểm đặc sắc về giá trị nghệ thuật của truyện ngắn Chữ người tử từ:
+ Nghệ thuật xây dựng cốt truyện cùng tình huống truyện và hình tượng nhân vật đặc sắc của tác giả.
+ Sử dụng triệt để các hình ảnh đối lập để làm sáng tỏ quan niệm thẩm mĩ của mình.
Sau khi đọc 2
Câu 2 (trang 135, SGK Ngữ Văn 11, tập hai):
Trong phần 2, người viết đã lập luận như thế nào để làm nổi bật vẻ đẹp của các nhân vật trong truyện Chữ người tử tù, nhất là việc “biết sợ” “cái tài, cái đẹp và thiên tính tốt đẹp của con người (thiên lương)”?
Đọc kĩ toàn bài, chỉ ra các lập luận để làm rõ luận điểm vẻ đẹp của các nhân vật.
Cách 1
* Luận điểm 1: Ánh sáng chói lóa của con người tài đức vẹn toàn trong ngục tù tăm tối, toàn kẻ tiểu nhân:
- Lí lẽ:
+ Trích dẫn: “ánh sáng đỏ rực của một bó đuốc tẩm dầu rọi trên ba cái đầu người đang chăm chú trên một tấm lụa bạch còn nguyên vẹn lần hồ”.
→ Sự chiến thắng của ánh sáng tri thức, của cái đẹp, cái tài, luôn tỏa sáng dù bất kì nơi đâu.
* Luận điểm 2: Tinh thần cứng rắn, gan góc của những người mang nhân cách cao thượng:
- Lí lẽ:
+ Tinh thần ấy rất phù hợp với một dân tộc luôn phải đương đầu với những bọn xâm lược, với bạo lực hung hăng nhất.
+ Huấn Cao và người quản ngục đều là những người mang trong mình tinh thần như thế. Một người dù bị phán tử nhưng vẫn không hề sợ hãi. Một người dù là người đứng đầu một trại giam nhưng lại là người yêu thích cái đẹp và không ngần ngại đi xin chữ một người tử tù.
* Luận điểm 3: Thái độ của Huấn Cao với người quản ngục.
- Lí lẽ:
+ Huấn Cao lúc đầu coi thường viên cai ngục nhưng khi chứng kiến những cử chỉ đẹp và thái độ với cái đẹp của viên quản ngục thì nhận ra tấm lòng và con người thật của ông.
Trong phần 2, người viết đã tạo ra ba luận điểm để làm nổi bật vẻ đẹp của các nhân vật trong truyện Chữ người tử tù:
* Luận điểm 1: Ánh sáng chói lóa của con người tài đức vẹn toàn trong ngục tù tăm tối, toàn kẻ tiểu nhân:
- Lí lẽ:
+ Trích dẫn: “ánh sáng đỏ rực của một bó đuốc tẩm dầu rọi trên ba cái đầu người đang chăm chú trên một tấm lụa bạch còn nguyên vẹn lần hồ”.
→ Sự chiến thắng của ánh sáng tri thức, của cái đẹp, cái tài, luôn tỏa sáng dù bất kì nơi đâu.
* Luận điểm 2: Tinh thần cứng rán, gan góc của những người mang nhân cách cao thượng:
- Lí lẽ:
+ Tinh thần ấy rất phù hợp với một dân tộc luôn phải đương đầu với những bọn xâm lược, với bạo lực hung hăng nhất.
+ Huấn Cao và người quản ngục đều là những người mang trong mình tinh thần như thế. Một người dù bị phán tử nhưng vẫn không hề sợ hãi. Một người dù là người đứng đầu một trại giam nhưng lại là người yêu thích cái đẹp và không ngần ngại đi xin chữ một người tử tù.
- Lí lẽ:
+ Huấn Cao lúc đầu coi thường viên cai ngục nhưng khi chứng kiến những cử chỉ đẹp va thái độ với cái đẹp của viên quản ngục thì nhận ra tầm lòng và con người thật của ông.
Sau khi đọc 3
Câu 3 (trang 135, SGK Ngữ Văn 11, tập hai):
Em hãy chỉ ra ý kiến, giọng điệu của người viết trong đoạn văn sau:
“Nhưng thử nghĩ mà xem, con người không biết sợ cái gì trên đời này cả, liệu có phải là con người không? Cái gì cũng “vô uý”, cũng tỏ thái độ sắt thép, nghĩa là không biết mềm lòng trước bất cứ một cái gì, đấy là loài quỷ sứ chứ đâu phải là người! Chữ người tử tù của Nguyễn Tuân dạy cho người ta hiểu rằng, muốn nên người, phải biết kính sợ ba điều này: cái tài, cái đẹp và cái thiên tính tốt của con người (thiên lương). Vậy, kẻ nào không biết sợ cái gì hết, đó là loài quỷ sứ.”
Đọc kĩ đoạn văn để chỉ ra ý kiến và giọng điệu của người viết.
- Trong đoạn văn trên, người viết đã chỉ ra ý kiến, khẳng định quan điểm của mình: "muốn nên người, phải biết kính sợ ba điều này: cái tài, cái đẹp và cái thiên tính tốt của con người (thiên lương). Vậy, kẻ nào không biết sợ cái gì hết, đó là loài quỷ sứ”.
- Giọng điệu dứt khoát với giọng văn trầm lắng, nhẹ nhàng nhưng cũng mãnh liệt.
Sau khi đọc 4
Câu 4 (trang 135, SGK Ngữ Văn 11, tập hai):
Ngôn ngữ nghị luận ở phần 3 có đặc điểm gì đáng chú ý?
Đọc kĩ toàn bài, chỉ ra ngôn ngữ nghị luận trong các đoạn và so sánh để tìm ra đặc điểm ở phần 3.
Cách 1
Ngôn ngữ nghị luận ở phần 3 có đặc điểm rất đáng chú ý: Tác giả sử dụng ngôn ngữ rất nhẹ nhàng nhưng rất rõ ràng và dứt khoát. Qua đó thể hiện rõ được quan điểm ý kiến của bản thân.
Tác giả sử dụng ngôn ngữ rất nhẹ nhàng nhưng rất rõ ràng và dứt khoát. Qua đó thể hiện rõ được quan điểm ý kiến của bản thân.
Ngôn ngữ nghị luận ở phần 3 có đặc điểm rất đáng chú ý: Tác giả sử dụng ngôn ngữ rất nhẹ nhàng nhưng cũng rõ ràng và dứt khoát.
Sau khi đọc 5
Câu 5 (trang 136, SGK Ngữ Văn 11, tập hai):
Em có đồng ý với ý kiến sau đây của người viết không? Vì sao?
“Có những cái cúi đầu làm cho con người trở nên hèn hạ, có những cái lạy làm cho con người đê tiện. Nhưng cũng có những cái cúi đầu làm cho con người bỗng trở nên cao cả hơn, lớn lao hơn, lẫm liệt hơn, sang trọng hơn.”.
Đọc kĩ toàn bài, hiểu nội dung của ý kiến và đưa ra quan điểm cá nhân.
Cách 1
- Em đồng ý với ý kiến trên.
- Vì trong cuộc sống, mình không phải là duy nhất và chúng ta không thể tồn tại mà chỉ biết mình, không biết sợ người khác. Có thể hiện tại mình hơn rất nhiều người nhưng vẫn kém hơn rất nhiều người. Do đó, cũng có đôi lúc chúng ta phải cúi đầu trước những người có nhiều tri thức và kinh nghiệm hơn. Tùy từng trường hợp mà chúng ta phải xem xét rồi mới quyết định có cúi đầu hay không. Do đó, “có những cái cúi đầu làm cho con người trở nên hèn hạ, có những cái lạy làm cho con người đê tiện. Nhưng cũng có những cái cúi đầu làm cho con người bỗng trở nên cao cả hơn, lớn lao hơn, lẫm liệt hơn, sang trọng hơn”.
Em đồng ý với ý kiến trên. Bởi lẽ, trong cuộc sống, mình không phải là duy nhất và chúng ta không thể tồn tại mà chỉ biết mình, không biết sợ người khác. Có thể hiện tại mình hơn rất nhiều người nhưng vẫn kém hơn rất nhiều người. Do đó, cũng có đôi lúc chúng ta phải cúi đầu trước những người có quyền lực cao quý hơn. Tùy từng trường hợp mà chúng ta phải xem xét rồi mới quyết định có cúi đầu hay không. Do đó, “có những cái cúi đầu làm cho con người trở nên hèn hạ, có những cái lạy làm cho con người đê tiện. Nhưng cũng có những cái cúi đầu làm cho con người bỗng trở nên cao cả hơn, lớn lao hơn, lẫm liệt hơn, sang trọng hơn”.
Sau khi đọc 6
Câu 6 (trang 136, SGK Ngữ Văn 11, tập hai):
Viết một đoạn văn (khoảng 10 – 12 dòng) bình luận về một bài học mà em rút ra được sau khi học truyện Chữ người tử tù.
Đọc kĩ toàn bài, hiểu nội dung và rút ra bài học cho bản thân và trình bày thành một đoạn văn 10 – 12 dòng.
Cách 1
Tác phẩm "Chữ người tử tù” của Nguyễn Tuân đã cho chúng ta thấy được những nét đẹp về nghệ thuật và nhân cách con người, thông qua đó còn truyền tải những thông điệp và bài học tốt đẹp đến người đọc. Qua câu chuyện, ta có thể thấy môi trường sống có thể thay đổi con người nhưng cũng có thể không. Những tên lính với thái độ thô lỗ, vô lễ đối với Huấn Cao là những kẻ thô bạo và tàn nhẫn, chỉ biết đánh đập và có tật xấu sau khi sống lâu ngày trong tù. Tuy nhiên, Huấn Cao và tên quản ngục lại ngược lại. Dù sống trong môi trường tăm tối, u ám và xấu xa nhưng họ không bị ảnh hưởng. Nhân cách của họ vẫn luôn trong sạch, thanh cao. Qua đó có thể thấy cái đẹp không chỉ đáng quý, mà còn làm cho con người trở nên đẹp hơn, cao quý hơn và thanh sạch hơn. Qua truyện, ta có thể thấy tác giả muốn gửi tới người đọc thông điệp rằng cái đẹp có khả năng tồn tại ở bất cứ đâu, bất cứ khi nào, và có khả năng đánh bại mọi thứ xấu xa và ác ôn. Nó cũng có thể giúp con người cứu rỗi tâm hồn của mình, gần gũi hơn với nhau. Ngay cả khi bị chôn vùi, cái đẹp vẫn không bao giờ mất đi giá trị nhân văn của nó.
“Chữ người tử tù” là một câu chuyện đầy cảm xúc về tràn ngập tính nhân văn của những con người trong ngục tù tăm tối. Đối với Huân Cao - người có tài viết chữ đẹp nhưng vì chống lại triều đình mà bị lãnh án tử hình, ông còn được miêu tả là một người tài năng hơn người, sở hữu một tấm lòng trong sáng và cao thượng. Dù phải đối diện với cái chết nhưng ông vẫn giữ được bản lĩnh và phong thái hiên ngang. Điều đặc biệt hơn nữa là con người ấy còn có một thiên lương trong sáng mà không phải ai trên đời ông cũng cho chữ. Ông chỉ tin tưởng và coi trọng ba người bạn tri kỉ trong cuộc đời mình. Tuy nhiên, khi hiểu được tấm lòng của quan coi ngục, ông đã mỉm cười cho quản ngục chữ. Điều đó cho thấy ông là người trân trọng người tài, trân trọng cái đẹp. Qua câu chuyện, em có thể rút ra trong mình bài học về nghệ thuật và phẩm chất con người. Nhân cách đẹp là sự kết hợp hài hòa giữa tài năng và tình cảm. Và cái đẹp luôn phải gắn kết với cái thiện, không thể tách rời. Cái đẹp không chỉ có ở những nơi đẹp đẽ nhất mà nó còn tồn tại trong những môi trường xấu xa và tàn ác. Tuy nhiên, không phải vì thế mà nó sẽ suy tàn, mà ngược lại, nó sẽ trở nên sáng tỏ và mạnh mẽ hơn. Chỉ có cái đẹp mới có thể chinh phục được trái tim con người, giúp con người trở nên tốt đẹp hơn và cao hơn trong cuộc sống.