Câu 3 (trang 50, SGK Ngữ Văn 11, tập hai):
Kẻ bảng dưới đây vào vở, chỉ ra một số chi tiết có tác dụng làm nổi bật sự khác biệt giữa hành động, vẻ bề ngoài với tâm trạng, cảm xúc bên trong của hai nhân vật Hoạn Thư và Thúc Sinh trước các tình huống khác nhau:
Tình huống |
Nhân vật |
Hành động/ vẻ bề ngoài |
Nội tâm |
Thúy Kiều mời rượu |
Hoạn Thư |
|
|
|
Thúc Sinh |
|
|
Thúy Kiều hầu đàn |
Hoạn Thư |
|
|
|
Thúc Sinh |
|
|
Khai thác nội dung đoạn trích, dựa vào những chi tiết làm nổi bật sự khác biệt, vẻ bề ngoài với tâm trạng, cảm xúc bên trong của hai nhân vật Hoạn Thư và Thúc Sinh, từ đó hoàn thiện bảng đề bài đưa ra.
Tình huống |
Nhân vật |
Hành động/ vẻ bề ngoài |
Nội tâm |
Thúy Kiều mời rượu |
Hoạn Thư |
- Vui vẻ, đon đả, nói cười
- Hoạn Thư ra vẻ ân cần, hỏi han, an ủi Thúc Sinh khi chứng kiến chàng đổ lệ
|
- Mưu mô, dùng nhiều thủ đoạn để hại Kiều, bắt Thúy Kiều ra hầu rượu cho mình và Thúc Sinh - Chứng kiến Thúc Sinh khóc, Hoạn Thư sinh lòng ghen, mượn cớ thét mắng, sai Thúy Kiều ra gảy đàn cho Thúc Sinh vui.
|
|
Advertisements (Quảng cáo) Thúc Sinh |
- Bàng hoàng, ngỡ ngàng. - Buồn bã, muộn phiền, khóc lóc với lý do mới mãn tang mẹ.
|
Khóc vì xót thương cho Thúy Kiều khi nhận ra Kiều và nghe khúc đàn Kiểu đánh. |
Thúy Kiều hầu đàn |
Hoạn Thư |
Hoạn Thư ra vẻ ân cần, hỏi han, an ủi Thúc Sinh; sai người làm gảy khúc đàn khác cho tâm trạng chàng vui. |
- Chứng kiến Thúc Sinh khóc, Hoạn Thư sinh lòng ghen, mượn cớ thét mắng, sai khiến Thúy Kiều. - Hả hê khi chứng kiến cảnh Thúy Kiều buồn bã, đau thương gảy khúc đoạn trường.
|
|
Thúc Sinh |
Thảm thiết, bồi hồi, gượng nói gượng cười cho qua chuyện |
Buồn bã, xót xa, càng nghĩ càng cay đắng nhưng vẫn “gạt thầm giọt thương” để cho qua chuyện, để Hoạn Thư không làm khó Thúy Kiều nữa. |
Cách 2:
Tình huống |
Nhân vật |
Hành động/ vẻ bề ngoài |
Tâm trạng, cảm xúc bên trong |
Thuý Kiều mời rượu |
Hoạn Thư |
Buộc Kiều hầu đàn, “xem mặt hỏi trả” Thúc Sinh, “thơn thớt nói cười” khen ngợi vờ vịt, mỉa mai về lòng hiếu thảo của Thúc Sinh. |
“Nham hiểu giết người không dao”; mưu toan “làm ra con ở chúa nhà đôi nơi”. |
Thúc Sinh |
“Chén tạc chén thù”, ngoảnh đi, chợt nói, chợt cười, cạn chén rượu mà Thúy Kiều mời như một con rối; nhất cử nhất động theo sự sai khiến của Hoạn Thư. |
“Phách lạc hồn xiêu”, khi biết cả Kiều và bản thân “đã mắc vào tay” Hoạn Thư; tan nát lòng “nát ruột tan hồn”. |
|
Thuý Kiều hầu đàn |
Hoạn Thư |
“Cười nói tỉnh say, chưa xong cuộc rượu lại bày trò chơi”; ngợi khen, quát mắng Thúy Kiều. |
“Dường đà cam tâm”; “khắp khởi mừng thầm” |
Thúc Sinh |
“Vội vàng gượng nói gượng cười”. |
Càng “thảm thiết bồi hồi”, “gan héo ruột đầy”, “nỗi lòng càng nghĩ càng cay đắng lòng”. |
Nhà thơ đã tả sự đối lập, tương phản giữa hai con người bề ngoài, bên trong của Hoạn Thư và Thúc Sinh, như “đi guốc trong bụng” nhân vật:
- Hoạn Thư: Bề ngoài thơn thớt nói cười/ Mà trong nham hiểm giết người không dao.
- Thúc Sinh: Người ngoài cười nụ cười trong khóc thầm.