Trang chủ Lớp 12 Ngữ Văn lớp 12 Binh giảng đoạn thơ sau trong bài Việt Bắc của Tố Hữu:Minh...

Binh giảng đoạn thơ sau trong bài Việt Bắc của Tố Hữu:Minh đi, có nhớ những ngày () Hắt hiu lau xám, đậm đà lòng son: Sau hơn ba ngàn ngày...

Việt Bắc – Tố Hữu – Binh giảng đoạn thơ sau trong bài Việt Bắc của Tố Hữu: .. Minh đi, có nhớ những ngày (…) Hắt hiu lau xám, đậm đà lòng son… Sau hơn ba ngàn ngày khói lứa. thủ đô Hà Nội và miền Bắc hoàn toàn giải phóng (10/1954). Bài thơ Việt Bắc của Tố Hữu ra đời trong bối cảnh lịch sử hào hùng và vẻ vang ấy. Mang tầm vóc một trường ca, với 150 câu thơ lục bát, bài thơ ca ngợi mối tình Việt Bắc, nhửng kỉ niệm sâu sắc cảm động của người cán bộ kháng chiến đối với Việt Bắc với bao ân tình thủy chung.

Advertisements (Quảng cáo)

Trên đường ta về lại thủ đô

Cờ đỏ bay quanh tóc bạc Bác Hồ.

Sau hơn ba ngàn ngày khói lứa. thủ đô Hà Nội và miền Bắc hoàn toàn giải phóng (10/1954). Bài thơ Việt Bắc của Tố Hữu ra đời trong bối cảnh lịch sử hào hùng và vẻ vang ấy. Mang tầm vóc một trường ca, với 150 câu thơ lục bát, bài thơ ca ngợi mối tình Việt Bắc, nhửng kỉ niệm sâu sắc cảm động của người cán bộ kháng chiến đối với Việt Bắc với bao ân tình thủy chung “15 năm ấy thiết tha mặn nồng”.

Phần mở đầu bài Việt Bắc gồm có 20 câu thơ, là lời đưa tiễn của kẻ ở lại đối với người về, cùa “ta” đối với “mình”. Đoạn thơ 8 câu dưới đây (từ câu 9 đến câu 16) nằm trong phần mở đầu bài thơ Việt Bắc:

.. Mình đi, có nhở những ngày

Hắt hiu lau xám, đậm đà lòng son…

Đoạn thơ đầy ắp ki niệm về Việt Bắc, “Quê hương Cách mạng dựng nên Cộng hòa”, mà “ta” hỏi “mình đi. có nhớ”. Hai chủ thể trữ tình, là người ở lại, là đồng bào Việt Bắc, là cô gái Việt Bắc, đang hát lời tiễn đưa “tha thiết bên ơn”. “Mình” cũng là một chủ thể trữ tình phiếm chỉ, ước lệ, cùng với “ta” tạo nên một cặp nhân vật trong giao duyên, đưa tiễn, ở đây là người cán bộ kháng chiến về xuôi, trong đó có nhà thơ. Mỗi cặp lục bát nhắc lại một kỉ niệm về Việt Bắc. Những chi tiết nghệ thuật vừa cụ thể, vừa mang ý nghĩa tượng trưng giàu sác thái biêu cảm.

Các câu lục trong đoạn thơ là những câu hỏi tu từ nối tiếp xuất hiện, như nhắc nhở, như gợi nhớ gợi thương: “Mình đi, có nhớ những ngày”.. “Mình về, có nhớ chiến khu”.. “Mình về, rừng núi nhớ ai”.. “Mình đi, có nhớ những nhà”… Điệp ngữ “có nhớ” làm cho cảm xúc thơ lắng đọng, giọng thơ trở nên tha thiết bồn chồn, ngọt ngào sâu lắng. Hai tiếng “mình di” và “mình về” được luân phiên giao hoán, chuyến đổi, một cách diễn đạt biến hóa, sinh động, có giá trị gợi lên cảnh tiễn đưa nhiều bâng khuâng, hình ảnh người cán bộ kháng chiến về xuôi mỗi lúc một đi xa dần, nhưng trong lòng vẫn mang theo tiếng hát và nỗi nhớ.

         Các câu bát trong đoạn thơ đều được tạo thành hai vế tiểu đối 4/4 cân xứng hài hòa. Những kỉ niệm sâu sắc chứa chan ân tình ân nghĩa đối với kẻ ở, người về được nhắc lại gợi lên bao nỗi niềm “bâng khuâng trong dạ, bồn chồn bước đi’’…

Mình đi, có nhớ “Mưa nguồn suối lũ // những mây cùng mù’ Cảnh mưa •răng nguồn, lũ ngập đầy suối, mây mù bao phủ núi rừng… là sự khắc nghiệt của thời tiết, của thiên nhiên Việt Bắc. Mưa, lũ, mây, mù còn mang ý nghĩa tượng trưng cho những gian khổ, thứ thách mà quân và dân ta phải trải qua trong những năm dài máu lửa.

Mình về, có nhớ “Miếng cơm chấm muối // mối thù nặng vai?” Tố Hữu đã lấy cái cụ thể “Miếng cơm chấm muối” đế nói lên cái trừu tượng: gian khổ thiếu thốn. “Mối thù nặng vai” cũng là một hình ảnh cụ thể biểu cảm. Mối thù đối với quân xâm lược đè nặng đôi vai, luôn luôn nhắc nhở nuôi dường ý chí chiến đấu để giải phóng đất nước, giành lại tự do, hòa bình cho nhân dân. Không bao giờ có thế quên “mối thù nặng vai” ấy.

Hỏi núi rừng “nhớ ai”, cũng là hỏi “mình về, có nhớ”. Nghệ thuật nhân hóa và đại từ “ai” phiếm chỉ gợi lên bao man mác bâng khuâng.

Mình về, rừng núi nhớ ai

Trám bùi dể rụng / / măng mai để già

Trám bùi, măng mai là nguồn lương thực vô tận của núi rừng Việt Bắc để •nuôi bộ đội đánh giặc trong nhữiig tháng ngày gian khổ. Hương vị núi rừng ấy tượng trưng cho mối tình Việt Bắc sâu nặng ân nghĩa. Các từ ngữ: “để rụng”, “để già” thoáng chút bùi ngùi, cô đơn thương nhớ.

Kỉ niệm thứ tư, ta hỏi “minh đi, có nhớ”.

Mình đi, có nhở những nhà

Hắt hiu lau xám // đậm đà lòng son

Hai câu thơ có hình ảnh tượng trưng và tương phản đặc sắc. “Những nhà” được nhà thơ nói đến là tất cả đồng bào các dân tộc Việt Bắc. “Hắt hiu lau xám” là cảnh hoang vu hoang vắng của núi rừng, biểu tượng cho sự nghèo đói, thiếu thôn vật chất. Tương phản với “hắt hiu lau xám” là “đậm đà lòng son”, một hình ảnh ẩn dụ rất đẹp ca ngợi tâm lòng son sắt thủy chung. Câu thơ “hắt hiu lau xám, đậm đà lòng son” là một câu thơ hay và đẹp. Đẹp ở hình tượng và hay vì giàu sắc thái biểu cảm. Qua thủ pháp tương phản, Tố Hữu ca ngợi đồng bào Việt Bắc tuy còn nghèo khổ, thiếu thôn nhưng giàu tình yêu nước, gắn bó thủy chung với cách mạng và kháng chiến.

          Cùng với chữ “ta”, chữ “mình” xuất hiện với tần số cao trong bài Việt Bắc cũng như trong đoạn thơ này, đã tạo nên sắc điệu trữ tình thắm thiết, đậm đà tính dân tộc. Tố Hữu đã vận dụng cách nói và cách thể hiện tình cảm của dân gian trong ca dao, dân ca một cách sáng tạo. Tình cảm cách mạng và kháng chiến, tình Việt Bắc, tình lưu luyến của lứa đôi, của kẻ ở người về được diễn tả qua hai tiếng “mình-ta” ấy.

Trong chín năm kháng chiến chông Pháp, Tô’ Hữu đã sổng và hoạt động tại Việt Bắc, đã cùng đồng chí, đồng bào, bộ đội trải qua những tháng ngày gian khổ mà hào hùng, vinh quang. Lời đưa tiễn thiết tha, sâu láng, bồi hồi trong lòng kẻ ở người về. Cảm xúc ấy là tiếng lòng cùa “mình – ta” cũng là tiếng lòng của nhà thơ.

“Thơ là tiếng lòng trang trải”. Việt Bắc là tiếng lòng trang trải cùa người cán bộ kháng chiến với bao “ân tinh thủy chung”.