YÊU CẦU
1 đề cập đến một vấn đề lí luận văn học và có hai yêu cầu rõ ràng. Trước hết, trên cơ sở hiểu câu chữ và cách diễn đạt, phải giải thích được đúng ý kiến của đồng chí Phạm Văn Đồng: “Văn học, nghệ thuật là công cụ để hiểu biếu để khám phá, để sáng tạo thực tại xã hội”. Văn học, nói rộng là ra là nghệ thuật, giúp người đọc có thêm những tri thức cần thiết; để từ những hiểu biết đó, con người có thể xây dựng một xã hội mới tối đẹp hơn (“sáng tạo thực tại xã hội”).
Như vậy, ý kiến của đồng chí Phạm Văn Đồng đã đề cập tới vấn đề chức nàng của văn học nghệ thuật trong đời sống (chức năng nhận thức, chức năng thẩm mĩ và giáo dục) bằng cách diễn đại bồi thân. Do đó, không nên phân biệt tách bạch ba ý, mà nên hiểu tinh thần chung của cả nhận định.
2. Trên cơ sở có những hiểu biết nhất định về văn học nghệ thuật (dĩ nhiên, đối với học sinh, trước hết phải có những hiểu biết chắc chắn về văn học), biết cách chọn lọc những tác phẩm tiêu biểu, phân tích để làm sáng tỏ ý kiến nêu ở đề bài, có thể theo hai ý chính:
- Văn học đã cung cấp cho người đọc những hiểu biết toàn diện về xã hội và con người.
- Từ những hiểu biết đó, con người có khát vọng và quyết tâm xây dựng xã hội mới tốt đẹp hơn.
3 làm có sức thuyết phục, ở phần này cũng không thể chỉ chứng minh một cách thuần tuý (cho dù chứng minh bằng lí lẽ và thông qua việc phân tích dẫn chứng), mà còn phải biết đào sâu, lí giải vấn đề.
Đây là vấn đề rất có ý nghĩa không những đối với người sáng tác mà đối vđi cả những người thưởng thức, và cũng là vấn đề thường được đặt ra ở nhiều thời đại.
Đối với loại đề này, nếu học sinh biết trình bày những thu hoạch của chính bản thân mình qua quá trình học văn (dĩ nhiên phải theo định hướng của đề bài) có thể sẽ dễ thành công hơn.
BÀI LÀM
Con người, chính con người lại luôn luôn kinh ngạc về mình, kinh ngạc và sửng sốt trước khát vọng, trước sức vươn lên của chính mình.
Điều kì diệu mà con người đã làm nên, đó là cuộc - sống - hôm - nay và con - người - hôm - nay. Từ những bước đầu chập chững trong rừng già nguyên thuỷ, đến những gian truân, cực nhọc qua đêm trường trung cổ, đến kỉ nguyên rực rỡ của chủ nghĩa xã hội - thời gian này là những bước mở màn... Điều gì đã giúp con người đủ nghị lực và sức mạnh trải qua con đường sỏi đá ấy? Đó là tình yêu thiết tha, sôi nổi đến cuồng nhiệt đối với cuộc sống.
Bằng tình yêu cấy, con người đã làm nên tất cả đề ngày càng hiểu biết hơn, khám phá được nhiều hơn để sáng tạo thực tại xã hội. Những bước trưởng thành của con người được lịch sử ghi nhận. Nó chứng tỏ sức mạnh bất diệt của con người.
Bên cạnh những môn khoa học khác, tồn tại một ngành nghệ thuật: đó là văn học. Đối với con người, văn học hoàn toàn gần gũi. Văn học đã gắn với tuổi thơ của con người từ những câu ca dao mượt mà: Con cò mà đi ăn đêm, Đêm qua tát nước đầu đình, từ những câu chuyện cổ tích trữ tình về một cô Tấm xinh đẹp, hiền thảo, về một chàng Thạch Sanh dũng cảm, một chú mèo đi hia vui nhộn... Con người trưởng thành dần lên với những cầu chuyện, những bài thơ ca ngợi cái đẹp vĩnh cửu của thiên nhiên và con người, nguyền rủa và xa lánh những điều xấu xa, độc ác... Đối với con người, văn chương trở thành món ăn tinh thần, món ăn không thể thiếu được. Văn chương đi suốt chiều dài lịch sử loài người. Văn chương bầu bạn, theo con người mà lớn lên.
Sự tồn tại có lẽ là vĩnh cửu như vậy của văn chương chứng tỏ giá trị mà nó mang theo. Nó chứng tỏ rằng các ngành khoa học khác không thể thay thế nổi nó. Các ngành khoa học khác đã đem đến cho con người những hiểu biết toàn diện về cuộc sống, về xã hội, chỉ trừ một điều phức lạp, tinh vi nhất trong những điều phức tạp và tinh vi: đó là tình cảm của con người. Nghiên cứu về tâm hồn của con người, văn chương làm ta hiểu biết chính ta hơn, khám phá những khúc ngoặt quanh co của lòng mình, làm con người có ý thức sáng tạo lại mình, hoàn thiện mình trở nên tốt đẹp hơn, ... Con người là thành phần cơ bản, là chủ nhân của xã hội. Văn chương tác động đến con người, nghĩa là nó chứa những tia sáng vô hình xoay nắn và cải tạo xã hội. Hoàn toàn chính xác khi đồng chí Phạm Văn Đồng nhận định: “Văn học, nghệ thuật là công cụ để hiểu biết, để khám phá, để sáng tạo thực tại xã hội”.
Đối diện với văn học là ta đối diện với tất cả. Những điều mà văn học mang đến cho ta đồ sộ biết bao! Với văn học, một người Việt Nam biết tại nước Pháp xa xôi kia có một con người có trái tim nhân hậu, có tấm lòng yêu thương, nhưng đã phải chịu một kiếp sống khốn khổ (Những người khốn khổ, Victo Huygô). Xã hội tư sản Pháp đã đầu độc cuộc sống của con người, đã phủ lên nước Pháp phồn hoa tươi đẹp màn đêm u tối, lạnh giá của nhà tù, đã làm cho những em bé như Côdel chịu đoạ đày từ trong bụng mẹ, đã làm cho những con người xinh đẹp như Phăngtin phải lìa bỏ cuộc đời giữa tuổi thanh xuân, đã làm Giăng Vangiăng trở thành con người khốn khổ giữa biết bao những người khốn khổ. Tầm mắt ta lại hướng sang Nga, và trái tim ta lại cùng nhịp đập với nỗ thổn thức, niềm đau khổ vô tận của Anna Karênina (Anna Karênina, Lcp Tônxtôi) - một người phụ nữ giàu sức sống và khát vọng, nhưng lại bị hệ thống pháp luật, đạo đức, tôn giáo, dư luận khắc nghiệt của xã hội quý tộc giam hãm, phải chăng xã hội Nga nửa cuối thế kỷ XIX như một bánh xe lửa tàn nhẫn cắt đứt cuộc đời tươi trẻ của Anna? Với văn học, ta có điều kiện ngoảnh lại nhìn quá khứ và vươn lên nghĩ tới tương lai. Ta như được hoà mình vào bầu không khí thần tiên, tươi mát của đỉnh Ôlimpơ và nhìn thấy đâu đây hình ảnh kiên cường của Prômêlê bị xiềng, chàng trai quá cảm đã dám giấu thần Zơt mang lửa xuống cho loài người (Thần thoại Hi Lạp)...
Mở rộng tầm mắt theo không gian, văn chương còn giúp ta xâu chuỗi quá khứ, hiện lại, tương lai. Văn học giúp ta hiểu biết thế giới vĩ mô (Chiến tranh và hoà hình, Lep Tônxtôi; Tấn trò đời, Bandăc), khám phá thế giới vi mô, đó là những xao động thoáng qua, những rung cảm linh tê của hồn người (Bác ơi, Tô Hữu).
Nhưng văn học không bao giờ mang nguyên cuộc đời vào trang sách. Văn học phản ánh đời sống hằng hình tượng văn học. Hình tượng văn học là bức tranh sinh động về cuộc sống và về con người. Đó có thể là một lão Grăngđê (ơgiêni Grănsđê, Bandăc), một chị Dậu (Tắt đèn, Ngô Tất Tố) đó có thể làm tiếng đàn của nàng Kiều (Truyện Kiều, Nguyễn Du), là cái sân gạch (Cái sân gạch, Đào Vũ), ... Trong mỗi hình tượng ấy, ta đều thấy hơi thở phập phồng của sự sống, thấy những quy luật bất diệt của thiên nhiên, đều thấy sự hiện diện của trái tim và khối óc, thấy nhưng điều rất riêng nhưng lại hết sức chung. Và chính sức mạnh của văn chương là chỗ đây. Nhờ hệ thống hình tượng ta hiểu được bản chất, quy luật của đời sống, cảm nhận được những ngoại lệ, những cá biệt. Văn chương khác các ngành khoa học khác là ở chỗ đó: các ngành khác phần lớn chỉ chấp nhận những nét đặc trưng và cơ bản để nêu lên thành định lí, định luật, ... và loại trừ cá biệt. Hình như chỉ có văn chương, nghệ thuật là quan tâm đến cá biệt ấy. Chính vì thế rất riêng mà cũng rất chung, ta được trang bị bởi con mắt toàn diện. Ta biết những cái lớn, nhưng lại hiểu điều rất nhỏ, ta cảm nhận được những điều lớn lao, lại cả những điều tinh vi nhất. Nhờ văn học, ta lại càng hiểu chính mình hơn. Ta thấy được một anh bộ đội nhớ nhiệm vụ, nhớ đồng đội rất cụ thể qua bài Nhớ của Phạm Tiến Duậl:
Advertisements (Quảng cáo)
Cái vết thương xoàng mà đi viện
Hàng còn chờ đó, tiếng xe reo
Nằm ngừa nhớ trăng, nằm nghiêng nhớ bến
Nôn nao ngồi dậy nhớ lưng đèn.
Nhưng cũng lại thấy những tấm lòng như vậy của biết bao anh bộ đội khác, những con người quên mình vì nhiệm vụ, biết và hiểu rất đúng về trách nhiệm vẻ vang của mình.
Rõ ràng, nhờ văn học, con mắt của ta được mở rộng nhiều, hiểu biết nhiều hơn và khám phá nhiều hơn. Văn học đến với ta không bằng những lời “hô to gọi giật”, không bằng những pho trương bên ngoài. Muôn đời, văn học là con người, con người thắm thiết, dung dị, con người với tất cả những gì đẹp nhất.
Phản ánh hiện thực là quy luật chung của văn học. Đã là quy luậl thì không một tác phẩm nào vượt ra được ngoài quỹ đạo đó. Ngay những câu rên rỉ của thi sĩ lãng mạn đòi cho họ một tinh cầu giá lạnh, một vì sao trơ trọi cuối trời xa cũng phản ánh một cuộc sống ngột ngạt trong xã hội Việt Nam trước Cách mạng tháng Tám và sự chán chường của cả một lớp thanh niên. Song một khi quy luật ấy trở thành yêu cầu, tiêu chuẩn thì chỉ có những tác phẩm văn học chân chính mới đạt được. Những tác phẩm ấy, qua việc phản ánh hiện thực, còn giúp con người hiểu biết và khám phá hiện thực nữa.
Thiên nhiên luôn luôn vận động, vận động không ngừng để tự hoàn thiện chính mình. Con người - bộ phận quan trọng của thiên nhiên - cũng tuân theo quy luật ấy. Sự vận động của thiên nhiên đưa trái đất từ những bãi lầy, từ những lục địa bất ổn định, từ bầu không khí không thuận lợi cho sự sống trở thành một hành tinh tươi đẹp, có đại dương xanh thẳm bao la, có những lục địa xanh cây tốt trái... như ngày mai, là cà một sự tiến hoá. Song con người có những điều rất khác với tự nhiên: Sự vận động của con người rất có ý thức chứ không phải là vô thức như tự nhiên. Bằng chính sự lao động của mình, con người làm cho cuộc sống no đủ hơn, hạnh phúc hơn, làm cho chính bản thân mình hoàn thiện hơn. Và văn học giúp con người. Không chỉ phàn ánh đời sống, văn học còn tham gia xây dựng đời sống theo quy luật của đời sống. Nói đến việc xây dựng đời sống không có nghĩa là hằng cách trực tiếp song văn học giáo dục con người, nâng cao ý chí và củng cố lòng tin con người đối với cuộc sống...; hay nói đúng hơn là văn học giúp con người xây dựng cuộc sống.
Văn học mang đến cho con người lòng yêu mến cái đẹp và căm thù những cái xấu xa. Kiếp sống của con người dưới thời Pháp thuộc thật là khủng khiếp. Trong chúng ta. ai đã chẳng từng cảm thấy mãi rưng rưng, khi chị Dậu phải rứt ruột bán đứa con yêu để có tiền nộp sưu cho chồng? vẫn văng vẳng đâu đây bên tai ta tiếng khóc xé ruột của cái Tỉu đòi sữa mẹ, tiếng kêu trời ai oán của chị Dậu giữa đêm tối đen như mực (Tắt đèn, Ngô Tất Tố). Có hiểu và hiểu sâu sắc những điều ấy, ta mới hiểu sâu sắc giá trị cuộc sống yên vui hôm nay. Một chế độ bất công như vậy không lẽ nào lại tồn tại được? Câu hỏi ấy Ngô Tất Tố đã đặt ra cho chính những con người cùng khổ đương thời, và đây cũng là một cách - dù có thể tác giả chưa nghĩ đến - kêu gọi những người lao động đứng lên để giành lại quyền sống cho mình... Nhà văn Pauxtôpxki đã rất thành công khi viết truyện ngắn Lẵng quà thông. Trong truyện, nhà soạn nhạc Êđua Grigơ đã sáng tác tặng Đanhi Pêđecxen một bản nhạc nhân dịp cô tròn mười tám tuổi. Bàn nhạc ấy đã làm cho cô nghe thấy tiếng động của biển quê, nghe thấy rừng thông vi vu trong gió, thấy tiếng tù và lưng núi, thấy bài hát về người con gái…; nghĩa là bản nhạc ấy đã làm sống dậy trong cô tất cả vẻ đẹp của quê hương cô, của cuộc đời, vẻ đẹp ấy làm cho cả những người lớn tuổi như chú Ninxơ của cô cũng phải “lảo đảo như một chàng say rượu”, còn làm cho chính cô phải kêu lên “Hỡi cuộc sống, ta yêu người!”.
Tất cả những điều kì diệu ấy Pauxtôpxki đã mang đến cho ta. Những tác phẩm như thế nâng cánh cho tâm hồn con ngươi, làm cho cuộc đời của ta “sẽ không qua đi vô ích”, như chính chú Ninxơ đã nghĩ về Đanhi.
Văn học mãi là bạn của con người, bên cạnh con người. Nó giúp con người có niềm tin, có sức mạnh, có khát vọng, có nhiệt tình để sáng tạo thực lại xã hội.
Tất cả những điều văn học đem lại cho con người giúp con người hiểu biết, khám phá và sáng tạo thực tại xã hội như một sự hưởng thụ - hưởng thụ và tiếp nhận những gì cao đẹp, trong sáng nhất. Hương thụ đem đến cho người đọc cảm giác về cái đẹp - khoái cảm thẩm mĩ. Văn học giúp đỡ và “dạy khôn” (C.Mac) con người nhiều lắm. Nhưng những điều nó mang đến cho ta lại hết sức nhẹ nhàng, và những điều ấy cứ từ từ ăn sâu và bền vững trong tâm hồn ta. Vì thế, những điều văn chương dạy ta trở nên có tác dụng rất lớn.
Và cũng vì thế, thái độ của những người thưởng thức văn chương không thể giống như nghiên cứu luận cương, báo cáo khoa học khác, cầm cuốn sách trên tay, hãy đừng bao giờ đọc lướt qua chỉ để nắm lấy vài tình tiết éo le, mùi mẫn, hoặc để nắm lấy cốt truyện rồi thôi. Hãy đến với văn chương như trái tim đến với trái tim, tâm hồn đến với tâm hồn. Hãy tìm đến văn chương với khái khao mãnh liệt, với niềm tin yêu và trách nhiệm đối với cuộc sống. Chỉ khi đó, văn chương mới có tác dụng với bạn. Và chỉ khi đó, văn chương mới thực sự là bạn của con người.
Hiểu về nghĩa vụ lớn lao cùa những người cầm bút, thiết nghĩ, các nhà văn có trách nhiệm hơn trong sáng tác, sáng tác không đơn thuần là chuyện “giải trí”, là chuyện đưa ra những nhìn nhận chung chung. Sáng tác phải để xây dựng cuộc sống. Thời đại và con người - độc giả - ngày nay đòi hỏi các nhà văn, nhà thơ phải nắm được yêu cầu trung tâm của thời đại, nhưng phải viết dưới nhận thức của riêng mình, trái tim và khối óc mình. Người đọc không thể nào chấp nhận những cảm xúc, những suy nghĩ “kịch” của người viết. Đúng như nhà thơ Tố Hữu đã nói: “Thơ chỉ bật ra khi trong tim ta cuộc sống đã tràn đầy”. “Vì thơ là cái nhuỵ của cuộc sống, nên nhà thơ phải đi hút cho được cái nhuỵ ấy và phấn đấu làm sao cho cuộc đời của mình cũng có nhuỵ” (Phạm Văn Đồng).
Đặc biệt trong giai đoạn hiện nay, khi trên đất nước ta chiến tranh đã kết thúc, cả nước đang tiến lên chủ nghĩa xã hội, nhu cầu đi sâu vào vấn đề con người lại đặt ra bức thiết hơn bao giờ hết. Văn chương cần bỏ qua những nét phô trương hào nhoáng bên ngoài đổ suy nghĩ về “thực tại xã hội”. Phải chăng khi chiến tranh đã kết thúc, con người có cảm giác “ngơi nghỉ” một chút, “thiếp đi một chút”... nghĩa là ích kỉ đi? Tác giả truyện ngắn Có một đêm như thế (Phạm Minh Thư) rất có lí khi đặt ra câu hỏi đó. Đừng bao giờ để cho những chi tiết lặt vặt của đời thường làm ta lãng quên đi ngày hôm qua anh hùng của dân tộc, đừng để ta có thể “thiếp đi”, mà “tình dậy” và hoà mình vào thế đi lên của cuộc sống. Những Tầm nhìn xa (Nguyền Khải), Đứng trước biển (Nguyễn Mạnh Tuấn). Cây phong non trùm khăn đỏ (Aimatôp), Thao thức (Alêchxan Krôn)... đều đã và đang phấn đấu theo hướng ấy, nó giống nhau ở chỗ quan tâm đến con người hơn, cụ thể và chi tiết hơn.
Mãi mãi “văn học, nghệ thuật là công cụ để hiểu biết, để khám phá, để sáng tạo thực tại xã hội”. Văn học sẽ mãi mãi là người hạn trung thành của cuộc đời, của con người.
Nguyễn Thị Kiều Sương Trường THPT Việt Đức - Hà Nội - Bài đoạt giải nhì