Trang chủ Lớp 12 Ngữ Văn lớp 12 (sách cũ) Soạn bài Rừng xà nu trang 37 SGK Văn 12 tập 2...

Soạn bài Rừng xà nu trang 37 SGK Văn 12 tập 2 - Văn lớp 12...

Rừng Xà Nu - Nguyễn Trung Thành - Soạn bài Rừng xà nu trang 37 SGK Ngữ Văn 12 tập 2. Đặt tên cho tác phẩm là Rừng xà nu, tác giả muốn sáng tạo một hình tượng mang tính sử thi nói về người Tây Nguyên kiên cường.

I. Soạn bài

1. Cảm nhận của anh chị về ý nghĩa nhan đề tác phẩm.

a. Nhà văn có thể đặt tên cho tác phẩm của mình, chẳng hạn: Làng Xô man, Tnú, những con người bất khuất...

Đặt tên cho tác phẩm là Rừng xà nu, tác giả muốn sáng tạo một hình tượng mang tính sử thi nói về người Tây Nguyên kiên cường. Bởi rừng xà nu rất gần gũi với người Tây Nguyên và có nhiều chi tiết giống với con người Tây Nguyên nên có thể đại diện cho đồng bào Tây Nguyên, cũng như gợi ra chất Tây Nguyên.

b. Hình tượng rừng xà nu dưới tầm đại bác.

-  Mở đầu tác phẩm, nhà văn tập trung giới thiệu về rừng xà nu, một rừng xà nu cụ thể được xác định đó: "Nằm trong tầm đại bác của đồn giặc”, "hầu hết đại bác đều rơi vào đồi xà nu cạnh con nước lớn”.

-    Nguyễn Trung Thành đã phát hiện ra: "cả rừng xà nu hàng vạn cây không cây nào là không bị thương”. Tác giả đã chứng kiến nỗi đau của xà nu: "có những cây bị chặt đứt ngang nửa thân mình đổ ào ào như một trận bão”, "có những cây con vừa lớn ngang tầm ngực người bị đạn đại bác chặt đứt làm đôi, ở những cây đó, nhựa còn trong, chất dầu còn lỏng, vết thương không lành được cứ loét mãi ra, năm mười hôm sau thì cây chết”.

Nhưng tác giả đã phát hiện được sức sống mãnh liệt của cây xà nu: "trong rừng ít có loại cây sinh sôi nảy nở khoẻ như vậy”.

Xà nu không những tự biết bảo vệ mình mà còn bảo vệ sự sống, bảo vệ làng Xô man: "Cứ thế hai ba năm nay, rừng xà nu ưỡn tấm ngực lớn ra che chở cho làng”.

Khi miêu tả rừng xà nu, cây xà nu, nhà văn đã sử dụng biện pháp ẩn dụ, nhân hoá như một phép tu từ chủ đạo, ông luôn lấy nỗi đau của vẻ đẹp của con người làm chuẩn mực để nói về xà nu khiến xà nu trở thành một ẩn dụ cho con người, một biểu tượng của con người Tây Nguyên bất khuất, kiên cường.

Các thế hệ con người làng Xô man cũng tương ứng với các thế hệ cây xà nu. Cụ Mết có bộ ngực "căn như một cây xà nu lớn”, tay "sần sùi như vỏ cây xà nu”. Cụ Mết chính là cây xà nu cổ thụ hội tụ tất cả sức mạnh của rừng xà nu. Tnú cường tráng như một cây xà nu được luyện trong đau thương đã trưởng thành mà không đại bác nào giết nổi. Dít trưởng thành trong thử thách với bản lĩnh và nghị lực phi thường cũng giống như xà nu phóng lên rất nhanh tiếp lấy ánh mặt trời. Cậu bé Heng là mầm xà nu đang được các thế hệ xà nu trao cho những tố chất cần thiết để sẵn sàng thay thế trong cuộc chiến cam go còn có thể phải kéo dài "năm năm, mười năm hoặc lâu hơn nữa”.

c. Hình ảnh đồi xà nu, rừng xà nu "trông xa xa đến ngút tầm mắt”, "nối tiếp tới chân trời”, lặp đi lặp lại trong truyện gợi ra cảnh rừng xà nu hùng tráng, kiêu dũng và bất diệt, gợi ra sự bất diệt, kiêu dũng và hùng tráng của con người Tây Nguyên nói riêng và con người Việt Nam nói chung trong cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước vĩ đại. Ấn tượng đọng lại trong kí ức người đọc mãi mãi chính là cái bát ngát của cánh rừng xà nu kiêu dũng đó. Đó là chất sử thi, chất anh hùng về tinh thần quật khởi của đồng bào Tây Nguyên.

2. Tác giả vẫn coi "Rừng xà nu là truyện của một đời và được kể trong một đêm”. Hãy cho biết ý nghĩa của anh /chị về nhận xét này.

a. Phẩm chất, tính cách của người anh hùng Tnú:

-   Gan góc, táo bạo, dũng cảm, trung thực (khi còn nhỏ cùng Mai vào rừng tiếp tế cho anh Quyết).

-   Lòng trung thành với cách mạng được bộc lộ qua thử thách (bị giặc bắt, tra tấn, lưng T’nú ngang dọc vết dao chém của kẻ thù nhưng anh vẫn gan góc, trung thành).

-   Số phận đau thương: Không cứu được vợ con, bản thân bị bắt, bị tra tấn (bị đốt mười đầu ngón tay).

-   Quật khởi đứng dậy cầm vũ khí tiêu diệt bọn ác ôn.

b. Câu chuyện bi tráng về cuộc đời Tnú: "T’nú không cứu được vợ con”. Cụ Mết nhắc tới bốn lần đế nhấn mạnh: khi chưa cầm vũ khí. Tnú chỉ có hai bàn tay không thì ngay cả những người yêu thương nhất Tnú cũng không cứu được. Câu nói của cụ Mết muôn khẳng định: chỉ có cần vũ khí đứng lên mới là con đường sống duy nhất, mới bảo vệ được những gì thân yêu, thiêng liêng nhất; chân lí cách mạng đúc rút từ chính thực tế máu xương, tính mạng của dân tộc, những con người thương yêu nên chân lí ấy phải ghi tạc vào xương cốt, tâm khảm và truyền lại cho các thế hệ tiếp nối.

c. Câu chuyện Tnú với dân làng Xô man nói lên chân lí lớn của thời đại: "Không có gì quý hơn độc lập, tự do”. Phải chống lại mọi kẻ thù xâm lược, kể cả phải cầm vũ khí và hi sinh tính mạng.

Khi chưa cầm vũ khí, làng Xô man rất đau thương: bọn giặc đi lùng sục như hùm beo, tiếng cười "sằng sặc” của những ác ôn, tiếng gậy sắt nện: "hù hự” xuống thân người. Anh Xút bị treo cổ. Bà Nhan bị chặt đầu. Mẹ con Mai bị chết thảm. Tnú bị đốt mười đầu ngón tay...

Cuộc sống ngột ngạt dồn nén đau thương, căm thù. Đêm Tnú bị đốt mười đầu ngón tay, làng Xô man đã nổi dậy. Rừng xà nu "ào ào rung động”, "xác mười tên giặc ngổn ngang”, tiếng cụ Mết như mệnh lệnh chiến đấu: "Thế là bắt đầu rồi, đốt lửa lên”.

Đó là sự nổi dậy đồng khởi làm rung chuyển núi rừng. Câu chuyện về cuộc đời về con người trở thành câu chuyện một thời, một nước. Như vậy câu chuyện về cuộc đời Tnú đã mang ý nghĩa cuộc đời một dân tộc. Nhân vật sử thi của Nguyễn Trung Thành gánh trên vai sứ mệnh lịch sử to lớn

Advertisements (Quảng cáo)

d. Vai trò của nhân vật: Cụ Mết, Mai, Dít, Heng đối với việc làm nổi bật nhân vật trung tâm và chủ đề:

-   Cụ Mết, Mai, Dít, bé Heng là sự tiếp nôi các thế hệ làm nối bật tinh thần bất khuất của làng Xô man nói riêng, của Tây Nguyên nói chung.

-   Cụ Mết: "quắc thước như một cây xà nu lớn” là hiện thân cho truyền thống thiêng liêng, biểu tượng cho sức mạnh tập hợp đế nổi dậy đồng khởi.

-   Mai, Dít là thế hệ hiện tại, trong Dít có Mai của thời trước và có Dít của hôm nay. Vẻ đẹp của Dít là vẻ đẹp của sự kiên định, vững vàng trong bão táp chiến tranh.

-   Bé Heng là thế hệ tiếp nối, kế tục cha anh để đưa cuộc chiến tới thắng lợi cuối cùng.

Dường như cuộc chiến khốc liệt này đòi hỏi mỗi người Việt Nam phải có sức trỗi dậy của một Phù Đổng Thiên Vương.

3. Hình ảnh cánh rừng xà nu và hình tượng nhân vật T’nú gắn kết hữu cơ với nhau như thế nào?

Trong truyện, hình ảnh cây xà nu, rừng xà nu, nhựa xà nu, khói xà nu... gắn kết hữu cơ với nhân vật Tnú và đồng bào Xô man. Dụng ý của nhà văn muốn dùng xà nu làm biểu tượng cho tinh thần gan góc, dũng cảm, dạn dày, bất khuất, trung kiên... của nhân vật Tnú và dân làng Xô man.

4. Cảm nhận về vẻ đẹp nghệ thuật của tác phẩm.

Những vẻ đẹp nghệ thuật của tác phẩm:

-  Khuynh hướng sử thi thể hiện đậm nét ở tất cả các phương diện: đề tài, chủ đề, hình tượng, hệ thống nhân vật, giọng điệu...

-   Cách thức trần thuật: kể theo hồi tưởng qua lời của cụ Mết (già làng), kể bên bếp lửa gợi nhớ lối kể "khan” sử thi của các dân tộc Tây Nguyên, những bài "khan” được kể như những bài hát dài hát suốt đêm.

-   Cảm hứng lãng mạn: tính lãng mạn thể hiện ở cảm xúc của tác giả bộc lộ trong lời trần thuật, thể hiện ở việc đề cao vẻ đẹp của thiên nhiên và con người trong thế đối lập với sự tàn bạo của kẻ thù.

II. Luyện tập

Viết bài nêu suy nghĩ cảm xúc về hình ảnh đôi bàn tay Tnú.

Gợi ý làm bài:

Bài viết có theo các ý chính sau:

-  Hoàn cảnh nào dẫn tới việc Tnú bị đốt mười đầu ngón tay? (tóm tắt câu chuyện)

-  Suy nghĩ cảm xúc của em đôi với việc Tnú bị đốt mười đầu ngón tay?

+ Về tội ác của giặc (thằng Dục và đồng bọn tra tấn con người theo lối trung cổ)

+ Về tinh thần bất khuất của người anh hùng Tnú.

-  Vì sao Tnú lại có phẩm chất anh hùng, bất khuất? (nêu lí tưởng lớn của dân tộc trong kháng chiến chống Mĩ thể hiện qua cách nói của các nhân vật trong truyện)

Bạn đang xem bài tập, chương trình học môn Ngữ Văn lớp 12 (sách cũ). Vui lòng chọn môn học sách mới cần xem dưới đây: