Tác phẩm văn học muốn trường tồn đều phải mang trong mình một sức hấp dẫn riêng và cho đến nay, nhân loại đã có một kho tàng văn học khổng lồ. Đọc một tác phẩm văn học điều mà chúng ta quan tâm hơn cả là sau những câu chữ, những cách thể hiện hấp dẫn, nhà văn đem đến cho độc giả điều gì? Nếu tài năng của họa sĩ đưực đánh giá bằng đường nét, màu sắc của bức vẽ, tài năng nhà văn được đánh giá dựa trên những vấn đề cuộc sống mà anh ta đề cập trong tác phẩm. Nói như vậy để khẳng định rằng văn học nghệ thuật nhất định phải liên hệ với cuộc sống, nhất định phải mang sức mạnh có được từ thiên chức của mình. Bản thân văn học cũng là một loại hình nghệ thuật mang tính đặc thù có tác động lớn đến cuộc sống. Có thể nói, nhà văn là “người thư kí trung thành của thời đại”. Tuy nhiên, xin dừng hiểu một cách cực đoan, văn học chỉ chép lại những gì xảy ra trong cuộc sống. Ngược lại, văn học chỉ là sản phẩm đầy sáng tạo được nhào nặn từ chất liệu cuộc sống. Những sản phẩm ấy không bao giờ chấp nhận sự bình thường bởi: "bình thường là cái chết của nghệ thuật” (Huy-gô). Và như vậy, một tác phẩm hay ra đời là một lần nữa sức mạnh văn học được khẳng định, mộl lần nữa nhà văn lại tìm đến cái thiên chức diệu kì của văn học đối với cuộc sống con người.
Có ý kiến cho rằng: sức mạnh của văn học dựa trên những chức năng của nó. Vậy nên chăng, khi đề cập đến vấn đề này, chúng ta cũng tách bạch, phân định theo từng chức năng ấy.
Thực ra, việc phân định như vậy chỉ mang tính lí thuyết. Trong thực tế, văn học tác động tới người đọc bằng cả một quá trình tổng hợp, kết chuyển nhiều yếu tố chức năng, và đương nhiên, sự tác động ấy cũng mang tính toàn diện. Phải thừa nhận rằng trong tri thức văn học là cả một “cuốn bách khoa toòn thư về cuộc sống”. Nó đáp ứng nhu cầu hiểu biết của con người về thế giới xung quanh. Và đó cũng chính là một yếu tố cơ bản cấu thành sức mạnh riêng của văn học nghệ thuật. Con người không phải lúc nào cũng đủ điều kiện để tìm hiểu cuộc sống mới lạ ở những vùng đất xa xôi. Với văn học, chúng ta còn có thể trở về Côn Sơn - Kiếp Bạc qua những vần thơ Nguyên Trãi, vẫn có thể thấy Thăng Long của hàng trăm năm trước trong nỗi buồn Bà huyện Thanh Quan. Thậm chí, chúng ta còn có thể tới những vùng đất Hy Lạp xa xôi để chứng kiến cuộc thám hiểm của chàng Uy-li-xơ thông minh gan dạ... Không phải đương nhiên chúng ta hiểu điều đó, mà trong quá trình sáng tạo, tác giả - cho dù là một cá nhân hay một cộng đồng... đã đưa vào tác phẩm một lượng thông tin phong phú, giúp người đọc nắm bắt cuộc sống. Secnusepxky từng nói: “Những kết luận khoa học như những thỏi vàng chỉ lưu hành trong một phạm vi nhỏ hẹp, còn tri thức từ các tác phẩm văn học như những đồng tiền nhỏ dễ dàng lưu thông, len lỏi đến với mọi người”. Đó chính là tri thức của cuộc sống mà nếu đến với nó bằng một tình yêu, một sự khao khát hiểu biết, thì chúng ta sẽ dỗ dàng nắm bắt được. Không phải ai cũng một lần trong đời được đặt chân lên xứ Lạng Sơn song người ta có thể biết xứ Lạng qua câu ca dao giản dị:
Đồng Đăng có phố Kỳ Lừa
Có nàng Tô Thị có chùa Tam Thanh.
Văn học mở ra những chân trời hiểu biết mới, những tầm nhận thức mới thúc đẩy quá trình phát triển của con người. Bởi lẽ mỗi chính thể văn học là một tấm gương cho độc giả soi mình vào để tự hoàn thiện bản thân, đồng thời đó cũng chính là kho tàng kinh nghiệm sống có tác dụng trực tiếp đến quá trình giao tiếp của con người. Một nhà lí luận đã rất đúng khi cho “nghệ thuật là một phương thức tồn tại của con người. Nó giúp cho con người mãi mãi là con người không sa xuống thành con vật, cũng không biến thành những ông thánh vô duyên vô bổ...”
Như vậy, văn học nghệ thuật tác động trực tiếp đến con người. Hay nói cách khác, nó nâng cao khả năng nhận thức của độc giả về những vấn đề trong cuộc sống. Chúng ta đều biết đến Đam San hùng dũng đi bắt nữ thần Mặt Trời và cho dù có thất bại đi chăng nữa thì khát vọng chinh phục thiên nhiên của chàng là sự vươn lên của ý thức con người trong cuộc sống. Chúng ta cũng đã đọc câu thơ của Tố Hữu:
Từ ấy trong tôi bừng nắng hạ
Mặt trời chân lí chói qua tim
Advertisements (Quảng cáo)
Hồn tôi là một vườn hoa lá
Rất đậm hương và rộn tiếng chim
Dù ở khía cạnh nào, thời đại nào đi nữa thì những câu thơ ấy vẫn là tiếng nói của nhận thức mà mỗi độc giả đều có cảm nhận được. Chúng ta nói văn học tác động đến người đọc một cách toàn diện, nghĩa là cả mặt lí trí và tình cảm. Đó là điều đương nhiên. Bởi lẽ mỗi tác phẩm văn học được viết ra, ngoài những nội dung thông tin nhằm mở rộng hiểu biết và nâng cao nhận thức, còn chất chứa tấm lòng con người sáng tác. Phải thực sự có cái tình ấy, thì tác phẩm mới đi sâu vào lòng người đọc. Nói xa một chút như vậy để thấy rằng văn học luôn gợi tình chính nó cũng là sợi dây liên cảm đánh thức dậy trong lòng người đọc những cảm xúc trong trẻo, mãnh liệt. Ai có thể đọc mà không cảm phục một Ham-Iet, yêu một Giăng van-giăng (Những người khốn khổ) hay không nghiêng mình trước mối tình Rô-mê-ô và Giu-li-ét bi thương từng lung lạc cả địa đàng. Văn học đủ sức làm rung lên cả những con tim tưởng như đã chai cứng, những tâm hồn ngỡ như cằn cỗi, già nua. Trước cuộc sống thực tại, ta có thể bình thản, nhưng trước những cuộc đời trong tác phẩm mấy ai có thể cầm lòng. Nói như vậy không có nghĩa là tác phẩm văn học đã hư cấu một cách quá đà những gì thuộc về cuộc sống mà ngược lại, những tác phẩm ấy đã dùng thứ ngôn ngữ hoàn chỉnh, lạ lùng để cô đọng lại những ý nghĩ, những cảm xúc, những giọt máu và những giọt lệ đắng cay, nóng bỏng của thế gian này (M.Gorki). Giữa người đọc và người sáng tác, sợi dây nối liền chính là tác phẩm. Mối quan hệ này tưởng như đơn giản song lại thật quan trọng. Người đọc chỉ có thể hiểu được tâm trạng tác giả hay cảm thông chia sẻ với những số phận con người khi tác phẩm đó mang đầy đủ giá trị nội dung, nghệ thuật, quan trọng hơn “là kết tinh một lần vào vĩnh viễn” giá trị nhân đạo. Xét cho cùng, dù nói cách này hay cách khác, chúng ta đều thừa nhận, văn học tìm đến chiều sâu của thế giới tâm linh con người để khơi dậy lòng nhân ái, tình yêu thương trước cái đẹp. Căm ghét, khinh bỉ những cái xấu xa. Văn học đã phá vỡ những giới hạn của không gian và thời gian. Ví dụ như các nhân vật tiêu biểu: xa như Ham-lét, Đăm Săn, gần như Lão Hạc, Chí Phèo. Tất cả đều đã thành “người thiên cổ” thế nhưng, trong chúng ta họ vẫn định hình với những tình cảm yêu, ghét, thương hại, xót xa... Đó là điều mà các tác phẩm văn học đã làm được và cũng chỉ là duy nhất có văn học mà thôi. Đọc một tác phẩm là đọc một cuộc đời, những tâm trạng, là tự soi mình vào để cuộc sống đẹp hơn. Văn học trong quá trình vận động theo quy luật từ cuộc sống đến nghệ thuật, rồi trở lại về cuộc sống đã góp phần tích cực vào việc thanh lọc con người. Giúp con người hướng tới “chân, thiện, mĩ”. Từ nhừng cái bình dị nhất của thực tiễn, người sáng tác đã đưa vào tác phẩm khiến nó thành những chuẩn mực về cuộc sống, về đạo đức con người. Chúng ta biết, trong mỗi tác phẩm văn học không chỉ có những vẻ đẹp mà còn cả những điều xấu xa để loại trừ. Làm được điều đó, văn học không thể không bắt nguồn từ cuộc sống và cái đẹp ấy cũng không thể gắn liền với đời sống thực của con người. Trong Ramayana cơn ghen dữ dội của Rama với một tâm trạng đầy mâu thuẫn, và cả những lời thanh minh khôn khéo, cứng rắn của Xi-ta đều là những diễn biến tâm lí điển hình. Thế nhưng điều cốt yếu là đằng sau đó, người đọc tự tìm cho mình lối lí giải hay những kinh nghiệm quý báu, thiết thực. “Truyện Kiều” có những nỗi đau, những khổ ải và cả những niềm hạnh phúc khiến người đọc phải suy nghĩ... Con người là một thực thể khó hiểu, không xấu hoàn toàn, cũng không tốt hoàn toàn. Chỉ có điều trong con người tốt, những nhược điểm được hạn chế đi rất nhiều. Tuy vậy, một người tốt chưa hẳn đã giữ mãi được cái tốt của mình. Cũng đừng thấy một kẻ xấu mà rẻ rúng. Nguyễn Trãi từng viết:
Ngoài chưng mọi thứ đều thông hết
Rui một lòng người cực hiểm thay
Như vậy, trong quá trình thanh lọc, văn học đã tác động vào con người bằng cả việc nói đến cái thiện, cái ác. Có điều phải tìm tòi, khơi dậy cái lương thiện của con người, loại bỏ những cái xấu xa, độc ác. Nói tổng quát, thì văn học đưa xã hội đi lên theo chiều hướng tích cực. Ta thấy những chàng Rama chiến đấu với quỷ dữ, những binh sĩ đời Lý đánh tan quân Tống trên sông Như Nguyệt và ngày nay là những Thạch Sanh của thế kỷ XX. Tất cả đều chiến đấu vì cuộc sống hòa bình của dân tộc mình, cộng đồng mình. Những câu thơ của Lý Thường Kiệt, của Hồ Chí Minh, Tố Hữu, Ncuvễn Đình Thi... đã mang sức mạnh của toàn dân tộc. Những vần thơ ấy đã làm tăng thêm sức mạnh của con người. Ôm đất nước những người áo vải. Đã đứng lên thành những anh hùng . Đọc hai câu thơ trên dường như cả lòng ta cũng đang cuộn trào dòng nhiệt huyết hào hùng. Trong những cuộc đấu tranh của con người , văn học luôn sát cánh bên họ, ca ngợi lẽ phải, niềm tin vào lòng dũng cảm. Rõ ràng, văn học đã tham gia vào quá trình cải tạo xã hội mà cụ thể là cải tạo con người. Cho đến ngày hôm nay, vai trò ấy càng khẳng định rõ nét hơn, đặc biệt là trong cuộc đấu tranh vì cuộc sống bình yên của nhân loại.
Với tư cách là một loại hình sáng tác nghệ thuật, văn học đã tồn tại trong quá trình phát triển của con người và khẳng định vai trò to lớn của nó đối với cuộc sống. Đặt bên cạnh các môn nghệ thuật khác, văn học luôn chiếm ưu thế với tính đặc thù. Văn học mang tính chính xác của các môn khoa học tự nhiên, mang những quan niệm của đạo đức học. Có điều trong quá trình sáng tác, nghệ sĩ đã kết tinh những đặc điểm ấy để tạo nên được một nét riêng độc đáo cho văn học. Thế giới của tác phẩm là thế giới của hình tượng rất đa dạng và mang tính sinh động cao. Chính vì vậy, mỗi tác phẩm là một bộ phim quay chậm chứ không còn là bức tranh, bức tượng bất động.
Người sáng tác, nói một cách hình ảnh chính là người “điều binh khiển tướng”. Sử dụng ngôn ngữ chính xác, giàu hình ảnh và xây dựng những hình tượng hấp dẫn thì đương nhiên tác phẩm sẽ đưa được người đọc vào “mê hồn trận ”, đi từ ngạc nhiên này tới ngạc nhiên khác, từ lí thú này đến lí thú khác. Với văn học, ngôn ngữ là phương tiện biểu hiện loại hình, là cách thể hiện. Và như vậy, một tác phẩm hay cũng phải là tác phẩm đạt tới trình độ tiêu biểu về ngôn ngữ.
Nói như vậy để cuối cùng đi đến khẳng định: văn học luôn có sự tác động đến cuộc sống con người. Sự tác động ấy dù dưới nhiều hình thức, song đều tập trung hoàn thiện con người, cải tạo xã hội. Bất kì ở thời đại nào văn học cũng luôn mang sức mạnh nội tâm được đúc kết từ cuộc sống. Sức mạnh ấy có thể làm xoay chuyển thế giới tinh thần của nhân loại giúp cho con người tìm đến cuộc sống văn minh, nhân ái. Qua hàng ngàn năm, hàng ngàn thế hệ, ngày nay chúng ta được kết tiếp những tác phẩm nổi danh kim cổ để thêm một lần chiêm nghiệm về giá trị lớn lao của văn học. Những tác phẩm ấy tồn tại cùng thời gian, tiếp tục hoàn thiện chức năng thiêng liêng của mình đôi với đời sống con người.