Câu 6 (trang 92, SGK Ngữ văn 8, tập 2)
Viết đoạn văn chia sẻ cảm nhận hoặc làm một bài thơ, vẽ một bức chân dung một trong ba nhân vật: Quang Trung (Quang Trung đại phá quân Thanh), Hoài Văn (Viên tướng trẻ và con ngựa trắng), anh Ba (Bến Nhà Rồng năm ấy...).
Vận dụng phương pháp tạo lập văn bản
Cách 1
Nhà văn Nguyễn Huy Tưởng lấy bối cảnh từ chính cuộc kháng chiến chống quân Nguyên xâm lược lần thứ hai nhưng văn bản lại mang rất ít yếu tố lịch sử mà chủ yếu là từ trí tưởng tượng phong phú, sáng tạo của tác giả. Nhà văn đã vẽ nên một bức tranh thật bao quát về cuộc kháng chiến chống Nguyên Mông lần thứ hai được đích thân Trần Hưng Đạo điều binh khiển lực. Dưới góc nhìn của người viết dã sử, tác giả đã để Trần Quốc Toản xuống bến Bình Than và quỳ xin chủ chiến, nhưng sau đó chỉ được vu ban cho trái cam và ban lệnh đi về bởi tuy nhận thấy Trần Quốc Toản có tấm lòng yêu nước tha thiết, nhưng tuổi còn quá nhỏ để có thể tham gia vào chuyện chính sự. Vừa tủi vừa buồn vậy nên chàng đã bóp nát trái cam trong tay từ lúc nào không biết.
Trở về từ chuyến đi gặp nhà vua, Hoài Văn đã tự mình rèn luyện, đồng thời kêu gọi và tập hợp những người tài để lập nên một đội quân của mình. Và cuối cùng chàng đã chiêu mộ được hơn sáu trăm người trẻ tuổi cùng ý chí thiện chiến lên đường đánh giặc giúp dân giúp nước. Họ không đi đánh giặc theo lệnh vua ban mà tự mình đi tìm giặc, thấy ở đâu là đánh ở đó, ý chí quyết tâm ấy đã được thể hiện rất rõ ràng qua lá cờ đỏ thêu sáu chữ vàng “Phá cường địch báo hoàng ân”. Họ vượt sông, trèo đèo lội suối, họ băng qua những cách rừng bạt ngàn và rồi cuối cùng cũng phát hiện thấy động tĩnh giặc ở gần dãy núi Ma Lục. Ở đó họ bàn nhau chiến thuật phục kích và xông lên khi có cơ hội. Cuối cùng Hoài Văn cùng những binh sĩ của mình đã anh dũng bắt sống được tướng giặc. Tuy đây là trận đánh đầu tiên của Hoài Văn và đội quân, nhưng họ đã dành được chiến thắng oanh liệt nhờ vào sự tài trí của người chỉ huy là Hoài Văn cũng như lòng đoàn kết, dũng mãnh của toàn đội quân. Ngoài lập được chiến công hiển hách, Hoài Văn đã hóa giải được hiểu nhầm với người anh em kết nghĩa Thế Lộc. Tiếp đó, Hoài Văn lại thành công cứu thoát được chú mình là Chiêu Thành Vương bị mai phục và gần như sẽ thua trận khi đang trên đường đuổi bắt tên bán nước Trần Ích Tắc. Chiêu Thành cùng đoàn quân anh dũng phản công lại, cầm cự đến những phút cuối cùng, khi nghĩ rằng mình sẽ bỏ mạng tại nơi đây thì Hoài Văn đã kịp thời xuất hiện, phá bỏ vòng vây và cứu được người chú của mình. Thấy được khí thế hùng dũng của cháu trai, Chiêu Thành Vương rất tự hào và mãn nguyện vô cùng.
Trong đoạn trích, chính chú ruột của Hoài Văn cũng không nghĩ rằng anh sẵn sàng xả thân mình cứu ông trong hoạn nạn. Qua chi tiết này cho thấy anh là một người trọng tình nghĩa và dám hết mình chiến đấu để đánh tan quân giặc bảo vệ đất nước. Hoài Văn cũng là người rất khôn khéo, chính trực khi vừa lập chiến công vừa lấy đó làm lí do hóa giải được hiểu nhầm với người anh em kết nghĩa Thế Lộc. Đây quả là một bậc anh hùng tài giỏi, dũng cảm, dám nghĩ dám làm, trọng nghĩa khí và hết lòng cho nhân dân, đất nước.
Hoài Văn - Anh hùng dân tộc, niềm tự hào của nhân dân, tấm gương để lớp trẻ noi theo. Và thậm chí hào khí dân tộc hùng dũng sục sôi trong người cậu thiếu niên Trần Quốc Toản trong thời đại ấy vẫn có sức tác động vô cùng mạnh mẽ đến thế hệ trẻ ngày nay. Trong tác phẩm “Lịch sử nước ta” của Hồ Chí Minh, Bác cũng từng có ca ngợi về người anh hùng Trần Quốc Toản:
Advertisements (Quảng cáo)
“Quốc Toản là trẻ có tài,
Mới mười sáu tuổi ra oai trận tiền,
Mấy lần đánh thắng quân Nguyên,
Được phong làm tướng cầm quyền binh nhung
Thật là một đấng anh hùng,
Trẻ con Nam Việt nên cùng noi theo”.
Cách 2:
Nguyễn Huệ — người anh hùng áo vải ở đất Tây Sơn là niềm tự hào của dân tộc Việt Nam. Người anh hùng áo vải ấy với thiên tài quân sự của mình đã đánh tan hai mươi chín vạn quân Thanh xâm lược, khiến cho bọn bán nước cầu vinh ê chề nhục nhã. Có thể nói Hồi thứ mười bốn trong tác phẩm Hoàng Lê nhất thống chí của nhóm Ngô gia văn phái đã phản ánh khá đầy đủ chân dung người anh hùng Nguyễn Huệ. Càng đọc chúng ta càng khâm phục tài năng xuất chúng của người anh hùng áo vải đất Tây Sơn ấy. Qua đó người đọc có thể hình dung được chân dung của người anh hùng áo vải Quang Trung không chỉ là nhà quân sự thiên tài “xuất quỷ, nhập thần” mà còn là một tướng quân giàu lòng yêu nước, có ý thức dân tộc hết sức sâu sắc. Ông là hình ảnh đối lập với những tên vua bán nước, hèn nhát. Quang Trung mãi mãi được nhân dân kính phục, yêu mến.
Cách 3:
Nhân vật anh Ba trong tác phẩm Bến Nhà Rồng năm ấy chính là Bác Hồ vĩ đại của chúng ta. Năm đó, Bác đã dùng tên giả là “Ba” để hoạt động và tìm đường ra đi cứu nước. Qua cuộc hội thoại với anh Tư Lê, chúng ta cảm nhận được quyết tâm đi sang nước bạn để tìm cách giải cứu nước ta của Bác. Trong tâm trí của anh Ba, chỉ tồn tại việc phải làm thế nào để dân ta không phải cực khổ, để nước ta có thể độc lập, chứ hoàn toàn không nghĩ gì về sự vất vả, khó khăn của chính mình. Khi được hỏi về việc phải làm sao để có tiền sinh sống, anh Ba đã rất tự tin để đưa ra hai bàn tay của mình. Đó là sự ý thức về sự lao động và quyết tâm làm bất cứ công việc gì để có thể tìm được con đường cứu nước. Giác ngộ ấy đã góp phần thể hiện sự vĩ đại, tiến bộ trong tư tưởng và sự hi sinh cao cả của anh. Cuối cùng, anh Ba đã được nhận làm phụ bếp trên con tàu đi từ nước ta sang Pháp. Anh sẽ phải làm việc vất vả, nhưng lúc ấy, trong anh chỉ toàn là niềm vui sướng và hi vọng về tương lai phía trước mà thôi. Cách gọi bếp trên tàu là Táo Quân, đã thể hiện tinh thần lạc quan và ý chí kiên định, không hề bị Tây Hóa của anh Ba.Chắc chắn, anh sẽ vượt qua tất cả để tìm được con đường cứu nước, và trở về quê hương với trái tim chân chất thuở ban đầu.