Đọc lại văn bản Ra-ma buộc tội trong SGK Ngữ văn 10, tập một (tr. 124), đoạn từ “Nói dứt lời, Gia-na-ki oà khóc” đến "vang trời trước cảnh tượng đó” và trả lời các câu hỏi:
Câu 1
Hành động dũng cảm bước vào giàn hoả thiêu của Gia-na-ki có ý nghĩa gì?
- Đọc lại đoạn văn trong văn bản Ra-ma buộc tội (SGK Ngữ văn 10, tập một, tr. 124).
- Chú ý hành động của Gia - na - ki và rút ra ý nghĩa.
Hành động dũng cảm bước vào giàn hoả thiêu của Gia-na-ki thể hiện nỗi khổ đau tuyệt vọng của nàng, đồng thời bộc lộ sự quyết đoán, can trường, coi trọng danh dự, khẳng định sự trong sạch và tình yêu chung thuỷ của nàng dành cho Ra-ma.
Xét từ khía cạnh văn hoá, hành động Gia-na-ki nộp mình cho lửa phản ánh nghi thức hiến sinh, vốn là một truyền thống văn hoá của người Ấn Độ cổ xưa. Hiến sinh nghĩa là hi sinh sự sống của một cá thể để bảo toàn cho sự sống bất diệt của toàn thể. Hành động hiến sinh của Gia-na-ki thể hiện niềm tin của người Ấn Độ về sự bất diệt, thiêng liêng của phẩm hạnh con người.
Mặt khác, lửa thiêng trong giàn hoả táng trong tín ngưỡng của người Ấn Độ là biểu tượng của sự thanh tẩy. Bước vào giàn hoả thiêu là biểu tượng của sự giải thoát, hoá giải, gột rửa mọi oan ức, sự huỷ bỏ thân xác phàm tục bề ngoài để linh hồn trở nên bất tử.
Câu 2
Tìm các chi tiết miêu tả Ra-ma trong đoạn cuối của văn bản. Các chi tiết đó cho thấy tâm trạng gì của nhân vật? Vì sao Ra-ma lại có tâm trạng đó?
- Đọc lại đoạn văn trong văn bản Ra-ma buộc tội (SGK Ngữ văn 10, tập một, tr. 124).
- Chỉ ra các chi tiết miêu tả Ra - ma trong đoạn cuối.
- Rút ra tâm trạng của nhân vật và lý giải.
Tâm trạng của Ra-ma được miêu tả qua các chi tiết: “lúc đó nom chàng khủng khiếp như thần Chết vậy”, “Ra-ma vẫn ngồi, mắt dán xuống đất”. Ở đây, tác giả đã đặc tả sự im lặng chết chóc, khoảnh khắc dồn nén và xung đột cao độ giữa lòng yêu thương và sự hoài nghi, ghen tuông; giữa tình yêu riêng tư và ý thức về danh dự trước cộng đồng của Ra-ma. Sự “im lặng chết chóc” đó thậm chí còn có sức nặng hơn cả những lời buộc tội của Ra-ma, đẩy Gia-na-ki vào thử thách vô cùng căng thẳng, tạo nên kịch tính đỉnh điểm cho câu chuyện.
Câu 3
Thần Lửa A-nhi (Agni) có vai trò gì trong văn hoá, tín ngưỡng của người Ấn Độ?
Dựa vào tìm hiểu của bản thân.
Trong văn hoá, tín ngưỡng của người Ấn Độ, thần Lửa A-nhi có một vai trò rất quan trọng, chỉ đứng sau thần Sấm Sét, là vị thần cai quản hạ giới, cầu nối giữa con người và thần linh.
Thần Lửa cũng được coi là vị thần có mặt ở khắp mọi nơi, biết được mọi việc, chứng giám cho đạo đức của con người. Vì thế, khi cần chứng minh cho sự trong sạch của mình, Gia-na-ki đã cầu xin thần Lửa.
Câu 4
Trong văn bản có đoạn: “Ai nấy, già cũng như trẻ, đau lòng đứt ruột xem nàng Gia-na-ki đứng trong giàn hoả. Trước mặt mọi người, trang tuyệt thế giai nhân đó nạp mình cho lửa. Các bậc thánh, các chư thần nhìn Gia-na-ki bước vào lửa, chẳng khác một lễ vật trong lễ tế sinh [..], các phụ nữ bật ra tiếng kêu khóc thảm thương. Cả loài Rắc-sa-xa (Rakshasa) lẫn loài Va-na-ra (Vanara) cùng kêu khóc vang trời trước cảnh tượng đó. Theo bạn, những chi tiết được kể trong đoạn này thể hiện đặc trưng gì của thể loại sử thi?
- Đọc kĩ đoạn trích.
- Vận dụng kiến thức của bản thân về thể loại sử thi để trả lời câu hỏi.
Những chi tiết này miêu tả cảnh tượng đám đông xúc động khi chứng kiến hành động dũng cảm và bi hùng của Gia-na-ki.
Nhân vật đám đông - người chứng kiến thường xuất hiện trong sử thi, đại diện cho sự đánh giá của cộng đồng đối với các nhân vật, sự kiện trong sử thi.
Câu 5
Người kể chuyện trong văn bản là ai? Kể bằng giọng điệu như thế nào? So sánh người kể chuyện trong văn bản Ra-ma buộc tội với người kể chuyện trong văn bản Héc-to từ biệt Ăng-đrô-mác và Đăm Săn đi bắt Nữ Thần Mặt Trời.
- Đọc lại đoạn văn trong văn bản Ra-ma buộc tội (SGK Ngữ văn 10, tập một, tr. 124).
- Chú ý vào dấu hiệu nhận biết người kể chuyện, nhận xét giọng điệu và đưa ra so sánh.
Người kể chuyện trong văn bản là người đại diện cho cộng đồng, kể chuyện bằng một giọng điệu ngợi ca, ngưỡng mộ. Giọng điệu này được thể hiện qua cách miêu tả nhân vật bằng những ngữ cố định (ví dụ: “người đẹp khuôn mặt bông sen”, “trang tuyệt thế giai nhân”); qua thái độ thương xót, ngưỡng mộ của đám đông chứng kiến.
Người kể chuyện nhân danh cộng đồng để thể hiện lòng ngưỡng mộ thành kính đối với nhân vật sử thi cũng là một yếu tố nghệ thuật rất đặc trưng của thể loại sử thi, xuất hiện cả trong văn bản Héc-to từ biệt Ăng-đrô-mác và Đăm Săn đi bắt Nữ Thần Mặt Trời.
Tuy nhiên, có thể thấy, nếu như người kể chuyện trong đoạn trích Đăm Săn đi bắt Nữ Thần Mặt Trời thường kể từ điểm nhìn bên ngoài, thì ở đoạn trích Héc-to từ biệt Ăng-đrô-mác, người kể chuyện còn miêu tả rất tinh tế diễn biến tâm lí của nhân vật từ điểm nhìn bên trong.
Câu 6
Bạn nhận xét gì về lời kể, lời miêu tả, lời đối thoại trong văn bản?
- Đọc lại đoạn văn trong văn bản Ra-ma buộc tội (SGK Ngữ văn 10, tập một, tr. 124).
- Nhận xét về lời kể, lời miêu tả, đối thoại trong văn bản.
Lời đối thoại của các nhân vật trong văn bản không những thể hiện được lí lẽ rất sắc bén của nhân vật, mà còn bộc lộ tâm trạng, cảm xúc của nhân vật, tác động trực tiếp tới cảm xúc của người đọc.
Lời miêu tả tuy cô đọng nhưng lột tả được một cách chính xác, tinh tế diễn biến nội tâm bên trong nhân vật.
Lời kể tuy đơn giản, ngắn gọn nhưng khắc hoạ rất tài tình các hành động dữ dội, quyết liệt của nhân vật. Chính lời kể, lời tả, lời đối thoại đã tạo nên sức lôi cuốn của câu chuyện.
Câu 7
Tìm hiểu về ảnh hưởng của sử thi Ra-ma-ya-na trong văn hoá Ấn Độ và các quốc gia khác trên thế giới. Theo bạn, vì sao sử thi Ra-ma-ya-na lại có ảnh hưởng như vậy?
Dựa vào tìm hiểu của bản thân để trả lời câu hỏi.
Sử thi Ra-ma-ya-na (Ramayana) có ảnh hưởng rộng lớn, vượt khỏi biên giới của đất nước Ấn Độ. Các đền thờ khắp nước Ấn Độ đều có hình ảnh thần khỉ Ha-nu-man (Hanuman).Câu chuyện về Ra-ma-ya-na được lưu truyền khắp các quốc gia Đông Nam Á và đồng thời để lại dấu ấn trong văn học, nghệ thuật và văn hoá của nhiều quốc gia khác trên thế giới. Trong các đền thờ ở Cam-pu-chia (Campuchia), Thái Lan, In-đô-nê-xi-a (Indonesia), Việt Nam, có rất nhiều bức phù điêu liên quan đến những nhân vật, sự kiện chính trong sử thi Ra-ma-ya-na.
Các tác phẩm Riêm-kê của Cam-pu-chia, Ra-ma-ki-en (Ramakien) của Thái Lan, Dạ Thoa vương của Việt Nam đều được coi là chịu ảnh hưởng của Ra-ma-ya-na. Sở dĩ Ra-ma-ya-na có ảnh hưởng lớn như vậy trong đời sống văn hoá của Ấn Độ cũng như các quốc gia khác là bởi Ấn Độ thời cổ đại là một trong những cái nôi văn hoá lớn của nhân loại, có sức lan toả tới nhiều quốc gia khác; sử thi Ra-ma-ya-na là một kho tàng tri thức đồ sộ, phản ánh toàn bộ đời sống tinh thần, từ tín ngưỡng đến phong tục, tập quán, lịch sử, triết học của Ấn Độ, đồng thời là sự kết tinh những giá trị nhân văn của con người. Sức hấp dẫn của các hình tượng, sự lôi cuốn của cách kể chuyện, vẻ đẹp của ngôn từ cũng là những yếu tố khiến cho tác phẩm giàu sức sống, hấp dẫn người đọc, người nghe mọi thời đại.
Câu 8
Mối quan hệ giữa tình yêu và danh dự được lí giải như thế nào trong văn bản Ra-ma buộc tội? Qua cách lí giải đó, bạn nhận ra quan niệm gì của người Ấn Độ cổ xưa? Bạn có đồng ý với quan niệm đó không? Vì sao?
- Đọc lại đoạn văn trong văn bản Ra-ma buộc tội (SGK Ngữ văn 10, tập một, tr. 124).
- Chỉ ra những lý giải về mối quan hệ giữa tình yêu và danh dự.
- Rút ra quan niệm của người Ấn Độ xưa và nêu ý kiến của bản thân.
Vấn đề quan trọng nhất được đặt ra trong đoạn trích Ra-ma buộc tội là vấn đề mối quan hệ giữa tình yêu và danh dự. Các nhân vật đều bị đẩy vào một tình huống cam go thử thách tình yêu và danh dự. Ra-ma đã nén tình cảm riêng tư của mình để bảo toàn danh dự.
Gia-na-ki trước hoàn cảnh nhân phẩm và danh dự bị xúc phạm, đã lựa chọn cái chết để chứng minh sự chung thuỷ và trong sạch của mình. Và cuối cùng, hành động quyết liệt của Gia-na-ki đã hoá giải mối xung đột này.
Những cách hành xử đó của nhân vật thể hiện quan niệm của người Ấn Độ cổ xưa: họ coi trọng tình yêu, nhưng đặc biệt đề cao danh dự, có thể hi sinh hạnh phúc cá nhân của mình để thực hiện bổn phận với cộng đồng.
Ngày nay, người ta có thể có những lựa chọn khác, không nhất thiết phải gạt bỏ hạnh phúc cá nhân để quy phục những chuẩn mực, nghĩa vụ với cộng đồng, tuy nhiên, phàm đã là con người, dù sống ở bất cứ thời đại nào, thì ý thức về danh dự, trách nhiệm có lẽ cũng là một phẩm giá quan trọng để làm người.