Trang chủ Lớp 12 Ngữ Văn lớp 12 (sách cũ) Luyện tập Người lái đò sông Đà trang 193 SGK Văn 12,...

Luyện tập Người lái đò sông Đà trang 193 SGK Văn 12, Chứng minh rằng Nguyễn Tuân đã quan sát công phu và tìm hiểu kĩ năng khi viết về sông Đà và người lái đò sông Đà...

Người lái đò sông Đà - Nguyễn Tuân - Luyện tập Người lái đò sông Đà trang 193 SGK Ngữ Văn 12. Chứng minh rằng Nguyễn Tuân đã quan sát công phu và tìm hiểu kĩ năng khi viết về sông Đà và người lái đò sông Đà

1. Chứng minh rằng Nguyễn Tuân đã quan sát công phu và tìm hiểu kĩ năng khi viết về sông Đà và người lái đò sông Đà.

-   Tác phẩm Người lái đò sông Đà thể hiện sự quan sát công phu và tìm hiểu kĩ càng của nhà văn trên các phương diện sau:

-   Tác giả đã miêu tả sông Đà với tất cả những chi tiết rất cụ thể, sinh động và thực tế.

-  Tác giả miêu tả từ nhiều góc độ quan sát: từ trên máy bay để thấy sông Đà như một sợi dây thừng.

(HS đọc kĩ phần trình bày ở trên để triển khai 2 ý trên chi tiết hơn).

2. Trong thiên tuỳ bút, tác giả đã dùng những biện pháp nghé thuật nào để khắc hoạ một cách ấn tượng hình ảnh con sông Đà hung bạo?

Tìm đến sông Đà, Nguyễn Tuân trước hết phát hiện ở con sông vẻ đẹp hung bạo, dữ dội. Đoạn văn trích tập trung miêu tả cái hung bạo của con sông qua cảnh thác nước và trận địa đá trên sông Đà.

-    Cảnh đá bờ sông dựng vách thành: Mặt sông quãng ấy lúc đúng ngọ mới thấy mặt trời (so sánh: vách đá chẹt lòng sông như một cái yết hầu; quan sát hình dung: khoảng cách nhẹ nhàng tưởng như đứng từ bờ này ném nhẹ hòn đá sang bờ bên kia... Những cảm giác tác giả muốn truyền cho người đọc rất ấn tượng: ngồi trong khoang đò quãng ấy, mùa hè cũng cảm thấy lạnh, nhà văn nói cái hẹp, cái tối của vách đá bờ sông để tôn lên sự hùng vĩ hiểm trở của sông Đà quãng lòng sông hẹp...). Tác giả đã sử dụng biện pháp tô đậm, cường điệu.

-   Khi miêu tả ghềnh sông, Nguyễn Tuân sử dụng cấu trúc câu trùng điệp: nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô sóng, cuồn cuộn lòng gùn ghè suốt năm như đòi nợ xuýt bất kì người lái đò nào qua đây. Tác giả dùng biện pháp vừa cường điệu và nhân hoá

-    Đoạn miêu tả những hút nước trên sông được Nguyễn Tuân tái hiện những cảm giác mạnh dành cho kĩ xảo điện ảnh... Tất cả chứng tỏ khả năng quan sát và sự hình dung, liên tưởng tuyệt vời. Ở đây tác giả dùng biện pháp so sánh, thể nghiệm...

-  Đoạn miêu tả “thác nước” và “thạch trận” sông Đà:

+ Âm thanh dữ dội, đầy những tiếng réo gào: “Từ xa đã nghe tiếng nước réo, réo gần lại, réo to mãi lên”. Tiếng thác được ví như tiếng rống của “ngàn con trâu mộng đang lồng lộn giữa trừng vầu tre nứa nổ lửa đang phá tung rừng lửa, rừng lửa cùng gầm thét với đàn trâu da cháy bùng bùng”. Người đọc có thể cảm nhận được sự lồng lộn, giận dữ của con sông qua một thứ ngôn từ có sức nóng, có màu sắc. Tác giả đã sử dụng biện pháp so sánh.

+ Hình ảnh: “Sóng bọt trắng xoá cả một chân trời đá” cho thấy sự mịt mùng của sóng nước đá” ngàn năm mai phục, khi con thuyền tới thì nhồm cả dậy, vồ lấy thuyền, mặt hòn nào cũng ngỗ ngược, nhăn nhúm, méo mó đến dữ tợn; đá bày “thạch trận”, sông Đà đã giao việc cho mỗi hòn với đá tướng, đá quân, những tường vây mà sóng nước tạo ra chỉ chờ con thuyền sơ hở để đưa vào cửa tử chết chóc... Nước: reo hò vang dậy, làm thành viên đá để bẻ gãy cán chèo vũ khí trên tay ông đò, đánh đến mòn đòn độc hiểm. Khi đối mặt, sông tích tắc sáng lên như một cửa bể đom đóm rừng sà xuống mà châm lửa vào đầu sóng làm hoa mắt... Ngay khi đã thua thì mặt các hòn đá cũng hết sức đáng sợ: cái mặt xanh lè vì thất vọng... (Nhân hoá).

Tóm lại, bằng các biện pháp nhân hoá, so sánh, tô đậm, phối hợp với việc sử dụng ngôn ngữ giàu chất tạo hình, gợi hình, những liên tưởng kì thú, táo bạo, khả năng vận dụng tổng hợp kiến thức của nhiều ngành nghề, nhiều lĩnh vực: nghệ thuật, võ thuật, quân sự những câu văn có sức sức dồn, độ căng, độ giãn đã giúp Nguyễn Tuân khắc họa một cách tượng về một con sông hung bạo, người đọc có thể hình dung sông Đà  có một linh hồn, một thứ thiên nhiên mà có nhiều lúc như Nguyễn Tuân nói: trông nó ra thành “diện mạo và tâm địa một thứ kẻ thù sô” của con người Tây Bắc, gợi liên tưởng tới câu đồng dao về thần sông, thần núi trong truyện cổ:

Núi cao sông hãy còn dài

Năm năm báo oán, đời đời đánh ghen.

3. Bên cạnh vẻ đẹp hình vĩ, hung bạo, sông Đà còn mang nét đẹp tình. Hãy phân tích vẻ dẹp trữ tình ấy.

Sông Đà trữ tình: “con sông Đà dài như một áng tóc trữ tình”, đầu tóc, chân tóc ẩn hiện dưới mây trời Tây Bắc đang nở hoa ban, hoa gạo tháng và cuộn mù khói núi Mèo đốt nương xuân. Sau này, Nguyễn Tuân tiếp so sánh “sông Đà như một áng tóc tuôn dài ngàn ngàn, vạn vạn sải”! bằng một so sánh độc đáo, Nguyễn Tuân làm hiện lên trước mắt người đọc hình ảnh một con sông có vẻ đẹp kiều diễm, duyên dáng, dịu dàng mềm mại, tha thướt như một nàng thiếu nữ mà mây trời khói núi. Tây Bắc trang điểm làm diễm lệ thêm vẻ đẹp của dòng sông.

- Vẻ đẹp màu nước sông Đà cũng mang một nét riêng hết sức cá tính: màu xuân màu xanh ngọc bích”, mùa thu “lừ lừ chín đỏ”. Cách gọi tên màu sắc con sông của Nguyễn Tuân quả là thật chính xác, ấn tượng. Có lẽ Nguyễn Tuân yêu sông Đà bởi màu nước của nó: trong ra trong, đục ra dục chứ không lờ lờ canh hến như ở những con sông khác.

-  Sông Đà gợi cảm:

+ Con sông như một cố nhân gần gũi, thân thiết tri âm tự bao giờ

+ Con sông gợi những niềm thơ: màu trắng tháng ba Đường thi trong thơ Lý Bạch

+ Niềm vui khi gặp lại dòng sông

-       Sông Đà hiền hoà, êm đềm, thơ mộng: cảnh thuyền trôi từ từ trên dòng sông, cảnh ven sông lặng tờ như cái êm đềm có tự ngàn xưa nguyên sơ, thanh bình, tươi sáng, yên tĩnh, thanh vắng. Tác giả như dẫn người đọc vào một thế giới cổ tích tuổi xưa, như trở về với khoảnh khắc của thời tiền sử hoang dại, hồn nhiên...

4. Phân tích hình tượng người lái đò trong cuộc chiến đấu với dòng nước hung dữ. Từ đó, hãy cắt nghĩa vì sao trong con mắt của Nguyễn Tuân, thiên nhiên Tây Bắc quý như vàng, nhưng con người Tây Bắc mới thực sự xứng đáng là “vàng mười” của Tổ quốc?

Khai thác vẻ đẹp, tính cách nghệ sĩ của người lái đò trong nghề nghiệp của mình. Đó là người lái đò thành thục, lão luyện, một “tay lái tài hoa một nghệ sĩ trên lĩnh vực chèo đò vượt thác. Biểu hiện:

-   Dấu ấn nghề nghiệp in trong vóc dáng. Ông đò có một ngoại hình khá độc đáo, đúng là người của sông nước (HS lấy dẫn chứng). Có lẽ dấu ấn nghề nghiệp ăn sâu vào máu thịt, xương cốt con người, lúc nào ông lái cũng trong tư thế chèo đò.

-  Đó là con người của những cảm giác mạnh mẽ, nguy hiểm. Đấy là “chất vàng mười” trong nhân vật của Nguyễn Tuân. Trên sông Đà, chiến trường sông nước luôn luôn giành dật sự sống từ thiên nhiên. Đó là một nghề yêu cầu con người phải “luôn mắt, luôn tay và câ luôn tim nữa”. Với người lái đò sông Đà, chỉ những đoạn lắm ghềnh, nhiều đá mới gây được cho ông sự ý vị. Ông than phiền đi trên những khúc sông không có thác thấy dại chân, dại tay và buồn ngủ. Lúc ấy, sông Đà hình như cũng hết cả đậm đà với nhà đò.

+ Người lái đò có một trí nhớ dẻo dai, ông thuộc sông Đà như thuộc một trường thiên anh hùng ca, trong đó thuộc cả những dấu chấm than, chấm câu, xuống dòng...

+ Vẻ đẹp, phẩm chất tài hoa nghệ sĩ của người lái đò hiện lên rõ nhất ở đoạn viết về trận thuỷ chiến. Đó là cuộc chiến không cân sức giữa người lái đò với sông Đà hung bạo. Người lái đò hiện lên như một “võ sư”, nắm vững binh pháp của thần sông, thần đá, như một tướng trận chỉ huy thuộc quy luật phục kích của lũ đá nơi ải nước, lại như một chiến sĩ xiếc đang thuần phục một con mãnh thú (sông Đà). Trên chiến trường sông nước ấy, người lái đò còn vẹn nguyên tư thế một chiến sĩ quả cảm, tài ba, chiến đấu với tất cả sự bình tĩnh, tự tin và lòng dũng cảm.

+ Khi sông nước trở lại thanh bình, mọi nguy hiểm đã qua, ta không thấy ai bàn thêm một lời nào về chiến thắng. Họ coi chuyện ấy vẫn thường xảy ra, rất bình thường, ở đây người đọc vẫn nhận ra “chất Nguyễn” (tức phong cách riêng của Nguyễn Tuân) trong nhân vật Nguyễn Tuân: có chút gì đó hơi khinh bạc tài tử. Như vậy, chính cái hùng vĩ, dữ dội của sóng, thác, nước Đà là yếu tố tôn ông lái đò lên hàng “oai phong tối thượng”. Đó là điều kiện để nhân vật Nguyễn Tuân thể hiện các ngón nghề của mình. Thiên nhiên Tây Bắc đẹp đẽ, kì thú, những con người Tây Bắc thực sự là thứ “vàng mười” của đất nước, tài hoa như vậy mới “trị” được con sông này, bắt nó phục.vụ cho cuộc sống của mình.

5. Hãy nêu nhận xét về nghệ thuật xây dựng hình tượng người lái đò cũng như nghệ thuật kế chuyện của Nguyễn Tuân trong phần này.

Nguyễn Tuân là nhà văn có tài tạo dựng không khí, đem đến cho tác phẩm bằng nghệ thuật miêu tả một sự sông động như sự việc đang diễn thật, lối thuật kể đầy kịch tính, mạch văn dồn dập, từ ngữ biến hoá cho người đọc thấy lôi cuốn, hấp dẫn có cảm giác như đang trực tiếp chứng kiến sự việc. Nhà văn đã thể hiện một cách tài hoa tất cả các tâm, lực, tất cả sự điêu luyện, tinh xảo nhà nghề của người lái đò. Theo Nguyễn Tuân, chỉ có thứ huân chương lao động siêu hạng ca cuộc sống tặng cho ông đò mới thực sự xứng đáng (dấu tròn ở ngực).

l Chứng minh rằng Nguyễn Tuân đã quan sát công phu và tìm hiểu kĩ năng khi viết vể sông Đà và người lái đò sông Đà.

-   Tác phẩm Người lái đò sông Đà thể hiện sự quan sát công phu và tìm hỉểu kĩ càng của nhà văn trên các phương diện sau:

-   Tác giả đã miêu tả sông Đà với tất cả những chi tiết rất cụ thể, sinh động và thực tế.

Advertisements (Quảng cáo)

-  Tác giả miêu tả từ nhiều góc độ quan sát: từ trên máy bay để thấy sông Đà như một sợi dây thừng.

(HS đọc kĩ phần trình bày ở trên để triển khai 2 ý trên chi tiết hơn). Trong thiên tuỳ bút, tác giả đã dùng những biện pháp nghé thuật nào để khắc hoạ một cách ấn tượng hình ảnh con sông Đà hung bạo?

Tìm đến sông Đà, Nguyễn Tuân trước hết phát hiện ở con sông vẻ đẹp hung bạo, dữ dội. Đoạn văn trích tập trung miêu tả cái hung bạo của con sông qua cảnh thác nước và trận địa đá trên sông Đà.

-    Cảnh đá bờ sông dựng vách thành: Mặt sông quãng ấy lúc đúng ngọ mới thấy mặt trời (so sánh: vách đá chẹt lòng sông như một cái yết hầu; quan sát hình dung: khoảng cách nhẹ nhàng tưởng như đứng từ bờ này ném nhẹ hòn đá sang bờ bên kia... Những cảm giác tác giả muôn truyền cho người đọc rất ấn tượng: ngồi trong khoang đò quãng ấy, mùa hè cũng cảm thấy lạnh, nhà văn nói cái hẹp, cái tối của vách đá bờ sông để tôn lên sự hùng vĩ hiểm trở của sông Đà quãng lòng sông hẹp...). Tác giả đã sử dụng biện pháp tô đậm, cường điệu.

-   Khi miêu tả ghềnh sông, Nguyễn Tuân sử dụng câu trúc cầu trùng điệp: nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô sóng, cuồn cuộn lòng gùn ghè suốt năm như đòi nợ xuýt bất kì người lái đò nào qua đây. Tác giả dùng biện pháp vừa cường điệu và nhân hoá

-    Đoạn miêu tả những hút nước trên sông được Nguyễn Tuân tái hiện những cảm giác mạnh dành cho kĩ xảo điện ảnh... Tất cả chứng tỏ khả năng quan sát và sự hình dung, liên tưởng tuyệt vời. ơ đây tác giả dùng biện pháp so sánh, thể nghiệm...

-  Đoạn miêu tả “thác nước” và “thạch trận” sông Đà:

+ Âm thanh dữ dội, đầy những tiếng réo gào: “Từ xa đã nghe tiếng nước réo, réo gần lại, réo to mãi lên”. Tiếng thác được ví như tiếng rống của “ngàn con trâu mộng đang lồng lộn giữa trừng vầu tre nứa nổ lửa đang phá tung rừng lửa, rừng lửa cùng gầm thét với đàn trâu da cháy bùng bùng”. Người đọc có thể cảm nhận được sự lồng lộn, giận dữ của con sông qua một thứ ngôn từ có sức nóng, có màu sắc. Tác giả đã sử dụng biện pháp so sánh.

+ Hình ảnh: “Sóng bọt trắng xoá cả một chân trời đá” cho thấy sự mịt mùng của sóng nước. Đá: ngàn năm mai phục, khi con thuyền tới thì nhồm cả dậy, vồ lấy thuyền, mặt hòn nào cũng ngỗ ngược, nhăn nhúm, méo mó đến dữ tợn; đá bày “thạch trận”, sông Đà đã giao việc cho mỗi hòn với đá tướng, đá quân, những tường vây mà sóng nước tạo ra chỉ chờ con thuyền sơ hở để đưa vào cửa tử chết chóc... Nước: reo hò vang dậy, làm thành viên đá để bẻ gãy cán chèo vũ khí trên tay ông đò, đánh đến mòn đòn độc hiểm. Khi đối mặt, sông tích tắc sáng lên như một cửa bể đom đóm rừng sà xuống mà châm lửa vào đầu sóng làm hoa mắt... Ngay

■        khi đã thua thì mặt các hòn đá cũng hết sức đáng sợ: cái mặt xanh lè ■r. thất vọng... (Nhản hoá).

fT:m lại, bằng các biện pháp nhân hoá, so sánh, tô đậm, phôi hợp với ^■èc sử dụng ngôn ngữ giàu chất tạo hình, gợi hình, những liên tưởng kì

I

, táo bạo, khả năng vận dụng tổng hợp kiến thức của nhiều ngành ề, nhiều lĩnh vực: nghệ thuật, võ thuật, quân sự những câu văn có sức sức dồn, độ căng, độ giãn đã giúp Nguyễn Tuân khắc họa một cách tượng về một con sông hung bạo, người đọc có thể hình dung sông Đà ĩ có một linh hồn, một thứ thiên nhiên mà có nhiều lúc như Nguyễn n nói: trông nó ra thành “diện mạo và tâm địa một thứ kẻ thù sô” của con người Tây Bắc, gợi liên tưởng tới câu đồng dao về thần g, thần núi trong truyện cổ:

Núi cao sông hãy còn dài

Năm năm báo oán, đời đời đánh ghen.

1 cạnh vẻ dẹp hình vĩ, hung bạo, sông Đà còn mang nét đẹp tình. Hãy phân tích vẻ dẹp trữ tình ấy.

ig Đà trữ tình: “con sông Đà dài như một áng tóc trữ tình”, đầu tóc, n tóc ẩn hiện dưới mây trời Tây Bắc đang nở hoa ban, hoa gạo tháng và cuộn mù khói núi Mèo đốt nương xuân. Sau này, Nguyễn Tuân tiếp so sánh “sông Đà như một áng tóc tuôn dài ngàn ngàn, vạn vạn sải”! bằng một so sánh độc đáo, Nguyễn Tuân làm hiện lên trước mắt Igười đọc hình ảnh một con sông có vẻ đẹp kiều diễm, duyên dáng, dịu Iđàng mềm mại, tha thướt Iihư một nàng thiếu nữ mà mây trời khói núi ■Tây Bắc trang điểm làm diễm lệ thêm vẻ đẹp của dòng sông.

I - Vẻ đẹp màu nước sông Đà cũng mang một nét riêng hết sức cá tính: jmàu xuân màu xanh ngọc bích”, mùa thu “lừ lừ chín đỏ”. Cách gọi tên ■màu sắc con sông của Nguyễn Tuân quả là thật chính xác, ấn tượng. Có mằẻ Nguyễn Tuân yêu sông Đà bởi màu nước của nó: trong ra trong, đục ra dục chứ không lờ lờ canh hến như ở những con sông khác.

-  Sông Đà gợi cảm:

+ Con sông như một cô” nhân gần gũi, thân thiết tri âm tự bao giờ + Con sông gợi những niềm thơ: màu trắng tháng ba Đường thi trong thơ Lý Bạch

+ Niềm vui khi gặp lại dòng sông

-       Sông Đà hiền hoà, êm đềm, thơ mộng: cảnh thuyền trôi từ từ trên dòng I ỉông, cảnh ven sông lặng tờ như cái êm đềm có tự ngàn xưa nguyên sơ,

:hanh bình, tươi sáng, yên tĩnh, thanh vắng. Tác giả như dẫn người đọc I vào một thế giới cổ tích tuổi xưa, như trở về với khoảnh khắc của thời tiền sử hoang dại, hồn nhiên...

Phân tích hình tượng người lái đò trong cuộc chiến dấu với dòng nước hung dữ. Từ đó, hãy cắt nghĩa vì sao trong con mắt của

Nguyễn Tuân, thiên nhiên Tây Bắc quý như vàng, nhưng con người Tây Bắc mới thực sự xứng đáng là “vàng mười” của Tổ quốc?

Khai thác vẻ đẹp, tính cách nghệ sĩ của người lái đò trong nghề nghiệp của mình. Đó là người lái đò thành thục, lão luyện, một “tay lái tài hoa . một nghệ sĩ trên lĩnh vực chèo đò vượt thác. Biểu hiện:

-   Dấu ấn nghề nghiệp in trong vóc dáng. Ông đò có một ngoại hình khá độc đáo, đúng là người của sông nước (HS lấy dẫn chứng). Có lẽ dấu ấn nghề nghiệp ăn sâu vào máu thịt, xương cốt con người, lúc nào ông lái cũng trong tư thế chèo đò.

-  Đó là con người của những cảm giác mạnh mẽ, nguy hiểm. Đấy là “chất vàng mười” trong nhân vật của Nguyễn Tuân. Trên sông Đà, chiến trường sông nước luôn luôn giành dật sự sống từ thiên nhiên. Đó là một nghề yêu cầu con người phải “luôn mắt, luôn tay và câ luôn tim nữa”. Với người lái đò sông Đà, chỉ những đoạn lắm ghềnh, nhiều đá mới gây được cho ông sự ý vị. Ông than phiền đi trên những khúc sông không có thác thấv dại chân, dại tay và buồn ngủ. Lúc ấy, sông Đà hình như cũng hết cả đậm đà với nhà‘đò.

+ Người lái đò có một trí nhớ dẻo dai, ông thuộc sông Đà như thuộc một trường thiên anh hùng ca, trong đó thuộc cả những dấu chấm than, chấm câu, xuống dòng...

+ Vẻ đẹp, phẩm chất tài hoa nghệ sĩ của người lái đò hiện lên rõ nhất ở đoạn viết về trận thuỷ chiến. Đó là cuộc chiến không cân sức giữa người lái đò với sông Đà hung bạo. Người lái đò hiện lên như một “võ sư”, nắm vững binh pháp của thẩn sông, thần đá, như một tướng trận chỉ huy thuộc quy luật phục kích của lũ đá nơi ải nước, lại như một chiến sĩ xiếc đang thuần phục một con mãnh thú (sông Đà). Trên chiến trường sông nước ấy, người lái đò còn vẹn nguyên tư thế một chiến sĩ quả cảm, tài ba, chiên đâu với tất cả sự bình tĩnh, tự tin và lòng dũng cảm.

+ Khi sông nước trở lại thanh bình, mọi nguy hiểm đã qua, ta không thấy ai bàn thêm một lời nào về chiến thắng. Họ coi chuyện ấy vẫn thường xảy ra, rất bình thường, ơ đây người đọc vẫn nhận ra “chất Nguyễn” (tức phong cách riêng của Nguyễn Tuân) trong nhân vật Nguyên Tuân: có chút gì đó hơi khinh bạc tài tử. Như vậy, chính cái hùng vĩ, dữ dội của sóng, thác, nước Đà là yếu tó tôn ông lái đò lên hàng “oai phong tốì thượng”. Đó là điều kiện để nhân vật Nguyễn Tuân thể hiện các ngón nghề của mình. Thiên nhiên Tây Bắc đẹp đẽ, kì thú, những con người Tây Bắc thực sự là thứ “vàng mười” của đất nước, tài hoa như vậy mới “trị” được con sông này, bắt nó phục.vụ cho cuộc sống của mình.

1.       Hãy nêu nhận xét về nghệ thuật xây dựng hình tượng người lái dò cũng như nghệ thuật kế chuyện của Nguyễn Tuân trong phần này. Nguyễn Tuân là nhà văn có tài tạo dựng không khí, đem đến cho tác phẩm bằng nghệ thuật miêu tả một sự sông động như sự việc đang diễn

thật, lối thuật kể đầy kịch tính, mạch văn dồn dập, từ ngữ biến hoá cho người đọc thấy lôi cuốn, hấp dẫn có cảm giác như đang trực tiếp ‘ng kiến sự việc. Nhà văn đã thể hiện một cách tài hoa tất cả các tâm,

. lực, tất cả sự điêu luyện, tinh xảo nhà nghề của người lái đò. Theo yễn Tuân, chỉ có thứ huân chương lao động siêu hạng của cuộc sông g cho ông đò mới thực sự xứng đáng (dấu tròn ở ngực).

Bạn đang xem bài tập, chương trình học môn Ngữ Văn lớp 12 (sách cũ). Vui lòng chọn môn học sách mới cần xem dưới đây: