Trang chủ Lớp 12 Soạn văn 12 Chân trời sáng tạo Ôn tập trang 57 trang 57 Soạn văn 12 Chân trời sáng...

Ôn tập trang 57 trang 57 Soạn văn 12 Chân trời sáng tạo tập 2: Bạn hình dung như thế nào về đời sống thành thị trong các đoạn trích đã học?...

Phân tích và lời giải soạn bài Ôn tập trang 57 SGK Ngữ văn 12 tập 2 Chân trời sáng tạo. Bạn hình dung như thế nào về đời sống thành thị trong các đoạn trích đã học? Liên hệ và so sánh với đời sống thành thị ngày nay...

Câu 1

Giải Câu hỏi 1 trang 57 SGK Văn 12

Bạn hình dung như thế nào về đời sống thành thị trong các đoạn trích đã học? Liên hệ và so sánh với đời sống thành thị ngày nay.

Method - Phương pháp giải/Hướng dẫn/Gợi ý

Nhớ lại kiến thức đã học để trả lời câu hỏi

Answer - Lời giải/Đáp án

Các đoạn trích mô tả những mặc cảm, mưu mô, và cuộc sống xô bồ của những người dân thành thị với tất cả sự thật và nghệch ngợm trong nghịch lý xã hội.

So sánh với đời sống thành thị ngày nay, ta nhìn thấy sự tiến bộ về mặt công nghệ, cơ sở hạ tầng, giáo dục, y tế, và các lĩnh vực khác. Tuy nhiên, vẫn có những vấn đề như tham nhũng, bất công, xã hội đa tầng lớp, và áp lực hàng ngày vẫn còn đe dọa đời sống của người dân thành thị. Mặc dù có sự cải thiện, nhưng vẫn cần phải cải thiện nhiều hơn để xây dựng một xã hội công bằng và phát triển bền vững.


Câu 2

Giải Câu hỏi 2 trang 57 SGK Văn 12

Kẻ bảng so sánh những điểm tương đồng và khác biệt giữa tiểu thuyết trung đại và tiểu thuyết hiện đại.

Method - Phương pháp giải/Hướng dẫn/Gợi ý

Nhớ lại kiến thức đã học để trả lời câu hỏi

Answer - Lời giải/Đáp án

Tiểu thuyết hiện đại

Tiểu thuyết trung đại

Cách kể chuyện

Kể theo trình tự thời gian

Ngôi kể

Ngôi thứ 3, tiểu thuyết hiện đại có thể kể theo ngôi thứ 1

Chữ viết

Được viết bằng chữ quốc ngữ - chữ của dân tộc

Sử dụng cả chữ Hán và chữ Nôm, chủ yếu là chữ Hán vì chữ Hán được xem là chữ quốc ngữ thời trung đại, mãi đến cuối thế kỉ XVIII đầu thế kỉ XIX với truyện Kiều của Nguyễn Du, chữ Nôm mới khẳng định được vị trí của mình.

Cốt truyện

Cốt truyện phức tạp, đa tuyến

Cốt truyện của tiểu thuyết trung đại đơn giản, đơn tuyến. Truyện phát triển theo trình tự thời gian, sự kiện nào có trước được kể trước, sự việc nào có sau kể sau. Gần như không có sự đảo lộn thời gian và sự việc trong tác phẩm.

Nhân vật

Nhân vật được xây dựng là con người phức tạp, đa dạng trong suy nghĩ, cảm xúc, cái xấu và cái ác luôn tồn tại cùng với cái tốt, cái lương thiện buộc con người phải đấu tranh với nó.

Vì chú trọng vào chi tiết, sự việc nên tâm lý và dòng tâm trạng, cảm xúc của nhân vật chỉ là sơ lược.


Câu 3

Gợi ý giải Câu hỏi 3 trang 57 SGK Văn 12

Chỉ ra và phân tích tác dụng của biện pháp nói mỉa trong trường hợp sau:

Người chết, sau khi được quan trên khám qua loa, đã được khâm liệm đến gần một ngày rồi, vậy mà chưa thấy cụ Hồng ra lệnh phát phục, mặc dầu mọi công việc cử hành tang lễ đã quyết định xong xuôi. Phái trẻ, nghĩa là bọn dâu con, đã bắt đầu la ó lên rằng phái già chậm chạp. Cậu tú Tân thì cứ điên người lên vì cậu đã sẵn sàng mấy cái máy ảnh mà mãi cậu không dùng đến. Bà Văn Minh thì sốt cả ruột vì mãi không được mặc những đồ xô gai tân thời, cái mũ mấn trắng viền đen - dernières créations!

(Vũ Trọng Phụng, Số đỏ)

Method - Phương pháp giải/Hướng dẫn/Gợi ý

Nhớ lại kiến thức đã học để trả lời câu hỏi

Answer - Lời giải/Đáp án

-Phái Trẻ (Bọn Dâu Con):

+Biểu hiện sự bất mãn với tốc độ của phái già thông qua việc la ó. Trong tang lễ, đáng lẽ cảm xúc đau buồn sẽ xuất hiện không muốn phải chia li người thân, nhưng bọn dâu con lại muốn nhanh chóng kết thúc.

-Cậu Tân:

+Chuẩn bị máy ảnh để chụp lại khoảnh khắc người chết - đáng lẽ sẽ là kỉ niệm đau buồn.

- Bà Văn Minh:

+Sốt ruột vì không được mặc đồ theo xu hướng, thông qua mỉa, bà có thể thể hiện sự bất mãn và gia tăng sự chú ý đến vấn đề của mình.


Câu 4

Hướng dẫn giải Câu hỏi 4 trang 57 SGK Văn 12

Bạn hãy rút ra những điều cần lưu ý khi:

a. Viết báo cáo kết quả của bài tập dự án về một vấn đề xã hội.

b. Trình bày báo cáo kết quả của bài tập dự án về một vấn đề xã hội.

Method - Phương pháp giải/Hướng dẫn/Gợi ý

Nhớ lại kiến thức đã học để trả lời câu hỏi

Answer - Lời giải/Đáp án

a.

Lưu ý khi viết báo cáo kết quả của bài tập dự án về một vấn đề xã hội

Nội dung báo cáo trình bày chính xác, đầy đủ kết quả thực hiện của bài tập dự án.

- Ngôn ngữ chuẩn mực, khách quan, khoa học.

- Sử dụng hợp lý sơ đồ, bảng biểu để trình bày kết quả của dự án; thuyết minh các hình ảnh minh họa một cách rõ ràng, phù hợp.

- Trình bày trích dẫn, cước chú và tài liệu tham khảo đúng quy cách.

- Bố cục bài viết cần đảm bảo các phần:

Mở đầu: Giới thiệu thông tin khái quát về dự án (tên dự án, hình thức của dự án, mục tiêu, nhiệm vụ, câu hỏi nghiên cứu, phương pháp nghiên cứu, các sản phẩm cần thực hiện, thời gian thực hiện).

Nội dung nghiên cứu: Trình bày chi tiết, rõ ràng các kết quả nghiên cứu của dự án.

Kết luận: Khái quát những nội dung chính từ kết quả nghiên cứu của dự án; nêu giải pháp hoặc vấn để cần tiếp tục nghiên cứu..

b. Trình bày báo cáo kết quả của bài tập dự án về một vấn đề xã hội.

Dựa vào phần tóm tắt ý đã chuẩn bị.

- Kết hợp phù hợp và nhuần nhuyễn bài thuyết trình với phương tiện phi ngôn ngữ.

- Tương tác tích cực với người nghe, trình bày rõ ràng và tự tin.


Câu 5

Trả lời Câu hỏi 5 trang 57 SGK Văn 12

Thực hiện dự án nghiên cứu về một vấn để xã hội được đặt ra từ tác phẩm văn học và viết báo cáo kết quả.

Method - Phương pháp giải/Hướng dẫn/Gợi ý

Nhớ lại kiến thức đã học để trả lời câu hỏi

Answer - Lời giải/Đáp án

Đề tài: Sau khi đọc và tìm hiểu về đoạn trích Đăm Săn đi bắt Nữ Thần Mặt Trời và những hiểu biết của mình về thể loại sử thi, viết báo cáo nghiên cứu về hình thức biểu diễn sử thi trong đời sống những người dân Ê đê hiện nay.

1. Đặt vấn đề

Sử thi Ê đê ra đời trong điều kiện xã hội loài người có những biến động lớn về những cuộc di cư lịch sử, đặc biệt là những cuộc chiến tranh giữa các thị tộc, bộ lạc để giành đất sống ở vùng rừng núi Tây Nguyên.

2. Giải quyết vấn đề

a) Khái quát về đồng bào Ê đê và sử thi Ê đê.

Đồng bào dân tộc Ê đê xếp thứ 12 trong cộng đồng 54 dân tộc anh em tại Việt Nam. Ước tính có hơn 331.000 người Ê đê cư trú tập trung chủ yếu ở các tỉnh: Đắk Lắk, phía Nam của tỉnh Gia Lai và miền Tây của hai tỉnh Khánh Hòa và Phú Yên của Việt Nam. Người Êđê gọi sử thi là klei khan. Klei nghĩa là lời, bài; khan nghĩa là hát kể. Hát kể klei khan không phải là hát kể thông thường mà bao gồm ý nghĩa ngợi ca. Thực chất đây là một hình thức kể chuyện tổng hợp được thông qua hát kể.

Các tác phẩm sử thi đều phản ánh quan niệm về vũ trụ với thế giới thần linh có ba tầng rõ rệt: tầng trời, tầng mặt đất và tầng dưới mặt đất - thế giới mà con người và thần linh gần gũi với nhau; phản ánh xã hội cổ đại của người Ê đê, cuộc sống sinh hoạt của cộng đồng bình đẳng, giàu có; phản ánh quyền lực gia đình mẫu hệ, đề cao vai trò của người phụ nữ trong quản lý và bảo vệ hạnh phúc gia đình.

3. Hình thức hát kể sử thi

Hát kể sử thi là loại hình sinh hoạt văn hóa dân gian đã có từ lâu đời của cộng đồng người Ê đê, được tồn tại bằng hình thức truyền miệng từ đời này qua đời khác.Nội dung của hát kể sử thi chủ yếu ca ngợi các anh hùng dân tộc, tôn vinh những người có công tạo lập buôn làng, những người anh hùng có công bảo vệ cộng đồng thoát khỏi sự diệt vong, áp bức và sự xâm chiếm của các thế lực khác; đề cao sự sáng tạo, mưu trí tài giỏi, tinh thần đoàn kết, tương trợ lẫn nhau lúc khó khăn hoạn nạn, nêu cao chính nghĩa, phản kháng những điều trái với đạo lý, luật tục; ca ngợi cái đẹp về sức mạnh hình thể lẫn tâm hồn, tình yêu đôi lứa, tình cảm gia đình, mong muốn chinh phục thiên nhiên để cuộc sống tốt đẹp hơn; miêu tả cuộc sống sinh hoạt, lao động bình thường giản dị của buôn làng…

Ngôn ngữ hát kể của sử thi Êđê là sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa lời và nhạc. Về phần lời, sử thi Ê đê đều thể hiện một hình thức ngôn ngữ đặc biệt là lời nói vần (klei duê). Trong khi diễn xướng người nghệ nhân còn vận dụng các làn điệu dân ca của dân tộc mình, như: Ay ray, kưưt, mmuin… để tạo nên nhịp điệu vừa có chất thơ vừa có chất nhạc. Trong hình thức ngôn ngữ đó, các câu chữ như một móc xích nối các câu vần với nhau. Chính đây cũng là một yếu tố quan trọng khiến nghệ nhân có thể thuộc được cả những tác phẩm dài hàng vạn câu.

Trong sử thi thường nhắc nhiều về những cánh rừng bạt ngàn, rõ nét nhất là cảnh buôn làng giàu có của các tù trưởng, những người hùng nổi tiếng khắp vùng như Đăm Săn, Khing Ju… Trong trí tưởng tượng của người kể, những cánh rừng đi săn bắn, nơi làm rẫy và bến nước đều ở hướng đông. Đây là hướng mỗi buổi sáng thức dậy và đi lên rẫy đều nhìn thấy mặt trời ló trên đỉnh núi, họ quan niệm đây là sự sống, sự sinh sôi, nẩy nở khi tiếp nhận ánh sáng của nữ thần mặt trời mỗi ngày. Ánh mặt trời là sự báo ứng của những điều tốt lành, là sự hy vọng trở thành hiện thực.

Ví dụ như trong sử thi Khing Ju có đoạn kể: “Đến sáng hôm sau, khi mặt trời lên khỏi ngọn núi, Prong Mưng Dăng lấy nước trong bầu rửa mặt. Sau đó, vít cần rượu và tiếp tục uống. Càng uống nước trong ché càng đầy, có lúc nước tràn ra ngoài”. Đây là điều tốt lành báo ứng cho Prong Mưng Dăng dắt bà đỡ đẻ về gấp cho em gái mình H’Ling kịp sinh con, trong khi Prong Mưng Dăng đang mải mê tỏ tình với H’Bia Ling Pang.

4. Ảnh hưởng của sử thi đối với dân tộc Ê đê.

Với bất cứ sử thi nào, khi một nhân vật đi tìm ai và hỏi người nào đó trong làng thì sẽ có câu trả lời khéo léo. Đó là: “Nhìn cột nhà sàn nó dài hơn nhà khác, có nhiều cái bành voi để ngoài hiên, cầu thang rộng bằng trải ba chiếc chiếu. Cầu thang rộng đến nỗi những chàng trai xuống một lúc năm, các cô gái thì xuống được ba người, con heo, con chó chạy đầy dưới sân”. Câu trả lời này làm cho người nghe tưởng tượng về ngôi nhà đó đẹp, dài, rộng hơn hẳn những ngôi nhà trong buôn mình. Riêng nội thất trong nhà, người kể luôn tạo ra những lời kể bằng ngôn từ tượng hình. Ví dụ: “Cột nhà trong chạm trổ rất đẹp, sàn nhà láng bóng. Gian trong cột bằng chỉ đỏ, gian ngoài cột bằng chỉ vàng”. Những hình ảnh gần như có thực với không gian hiện thực.

Ví dụ: “Từ trong bành voi, Mtao Grư đạp lên đầu voi nhảy xuống sàn hiên, từ sàn hiên nhảy qua ngạch cửa, từ ghế Jhưng (ghế chủ nhà), nhảy đến chỗ ngồi đánh Jhar (chiêng lớn tiếng ngân vang), từ chỗ đánh Jhar đến chỗ đánh chiêng (ghế kpan), từ chỗ đánh chiêng nhảy đến chỗ đánh hgơr (trống cái)”. Hình ảnh này làm người nghe hình dung ra những hành động nhẹ nhàng, nhanh nhẹn của Mtao Grư đi vào qua các vị trí đặt chiêng, chỗ để của những vật dụng (như jhưng, kpan, thứ tự từ gian ngoài đi vào gian trong). Qua tình tiết của câu chuyện, người nghe đã hình dung đây là một nhà giàu có nhất trong buôn làng

Tại không gian lễ hội bỏ mả của người Êđê M’Dhur, về khuya, sau khi mọi nghi lễ tạm dừng lại, thì nghệ nhân kể khan bắt đầu kể những bài khan nổi tiếng của dân tộc mình cho mọi người nghe. Đây là hình thức sinh hoạt kể sử thi vô cùng độc đáo. Bên đống lửa bập bùng tại không gian nhà mồ rộng lớn, nghệ nhân hát kể sử thi cho hàng nghìn người nghe. Dân làng, già trẻ gái trai và khách gần xa ngồi im lặng say sưa lắng nghe kể sử thi suốt đêm thâu cho đến khi con gà trống gáy vang núi rừng, báo hiệu ông mặt trời đã thức giấc thì nghệ nhân hát kể sử thi mới dừng câu chuyện lại để chuẩn bị cho các nghi lễ tiếp theo của lễ hội bỏ mả. Ở đây, lễ hội bỏ mả được tổ chức bao nhiêu ngày đêm, thì những người đến dự lễ được nghe kể sử thi bấy nhiêu đêm.

5. Kết luận.

Sử thi Ê đê, chính là một bức tranh rộng và hoàn chỉnh về đời sống nhân dân và về những anh hùng, dũng sĩ đại diện cho cộng đồng. Người dân Ê đê hát kể sử thi như một cách để bảo tồn và gìn giữ giá trị văn hóa lâu đời của dân tộc đồng thời tuyên truyền nét đẹp này đến với nhiều đồng bào dân tộc khác.

6. Tài liệu tham khảo

GS.TS Nguyễn Xuân Kinh, Quá trình sưu tầm và nhận thức lý luận đối với sử thi ở Việt Nam, Viện nghiên cứu văn hoá.

Khan (sử thi) của người Ê Đê, Cục Di sản văn hoá.

Hoàng Hưng (2021), Ý nghĩa tích cực trong đời sống tâm linh của đồng bào dân tộc Êđê, Văn hóa Việt Nam.