"Ôi sáng xuân nay, Xuân 41
Trắng rừng biên giới nở hoa mơ
Bác về... im lặng. Con chim hót
Thánh thót bờ lau, vui ngẩn ngơ...”.
(Theo chân Bác - Tố Hữu)
Sau 30 năm bôn ba hải ngoại tìm đường cứu nước, đầu năm 1941, Chủ tịch Hồ Chí Minh bí mật về tới Pác Bó, Cao Bằng. Giây phút ấy vô cùng thiêng liêng và cảm động.
Hang Pác Bó đã trở thành nơi sống và hoạt động bí mật của Người. Bài thơ "Tức cảnh Pác Bó” được Bác Hồ viết vào tháng 2 năm 1941 theo thể thất ngôn tứ tuyệt Đường luật:
"Sáng ra bờ suối, tối vào hang,
Cháo bẹ rau măng vẫn sẵn sàng;
Bàn đá chông chênh dịch sử Đảng,
Cuộc đời cách mạng thật là sang!”
Bài thơ phản ánh hoạt động phong phú, sôi nổi, phong thái ung dung tự tại và tinh thần lạc quan cách mạng của người chiến sĩ vĩ đại trong hoàn cảnh bí mật khó khăn gian khổ.
Câu thơ mở đầu gợi lên cuộc sống hoạt động bí mật của nhà thơ vào những ngày đầu mới về nước đang "nhóm lửa”. Hai vế tiểu đối đầy ấn tượng:
"Sáng ra bờ suối tối vào hang”.
Câu thơ có thời gian, không gian và hành động. Thời gian là "sáng” và "tối”: không gian là "suối” và “hang”, hoạt động là "ra” và "vào”. Mọi hoạt động đã trở thành nền nếp, từ sáng đến tối, từ suối đến hang, từ ra đến vào, khi cách mạng còn trứng nước, hoạt động chính trị gây dựng phong trào là chính, còn bí mật và nhiêu khó khăn. Người chiến sĩ vĩ đại của dân tộc đã sống và làm việc tại Pác Bó: “ sáng ra bờ suối tối vào hang”. Quy luật vận đông ấy thể hiện một tinh thần làm chủ hoàn cảnh rất chủ động và lạc quan.
Câu thơ thứ hai, ba chữ "vẫn sẵn sàng” có hai cách hiểu khác nhau rất lí thú. Sống và hoạt động bí mật nơi suối rừng hang động chí có cháo bẹ rau măng nhưng
sẵn có, đủ dùng ở nơi suối hang này. Đằng sau vần thơ là nụ cười của một con người lão thực, gian khổ khó khăn vẫn lạc quan yêu đời. Sau này, ý tưởng "giàu cố hào phóng” này, được Người nhắc lại trong bài ”Cảnh rừng Việt Bắc” đầu xuân 1947:
"Khách đến thì mời ngô nếp nướng,
Săn về thường chén thịt rừng quay.
Advertisements (Quảng cáo)
Non xanh nước biếc tha hổ dạo,
Rượu ngọt, chè tươi mặc sức say...”.
"Vẫn sẵn sàng”, "tha hồ dạo”, "mặc sức say”... là những cách nói “sang trọng”, hóm hỉnh và yêu đời.
Cách hiểu thứ hai: Mặc dù thiếu thốn khó khăn, phải ăn cháo bẹ rau măng, nhưng tinh thần cách mạng vẫn hăng say, vẫn nhiệt tình. Gian khổ biết bao, nhưng với tinh thần "vẫn sẵn sàng”, Người bền bỉ sáng niềm tin "nhóm lửa”:
"Ai hay ngọn lừa trong hang núi
Mà sáng muôn lòng, vạn kiếp sau!”
(Theo chân Bác)
Khác với người xưa "công thành, thân thoái”, mai danh ẩn tích ở chốn lâm tuyền, Hồ Chí Minh đã sống và chiến đấu vì một lí tưởng cao đẹp:
"Bàn đá chông chênh dịch sử Đảng”.
Đất nước cần, Bác viết "Đường cách mệnh”. Phong trào và cán bộ cần, Người "dịch sử Đảng”. Hình ảnh "bùn đá chông chênh” không chỉ nói lên khó khăn thiếu thốn chồng chất mà còn biểu lộ tinh thần phấn đấu hi sinh vì sự thăng lợi của cách mạng.
Câu cuối bài thơ đọc lên nghe rất thú vị. Một câu cảm thán vang xa:
"Cuộc đời cách mạng thật là sang!”
"Sang” nghĩa là sang trọng, cao sang. Một cách nói, một lối sống, một quan niệm nhân sinh và ứng xử tuyệt đẹp. Vượt lên trên gian khổ, khắc nghiệt là sang. Chỉ có "cháo bẹ rau măng”, chỉ có "bàn đá chông chênh” mà vẫn sang. Sang vì lạc quan tin tưởng về con đường cách mạng đánh Nhật đuổi Tây nhất định thắng lợi. Sang vì lí tưởng, vì đời sống tâm hồn phong phú, vì ung dung tự tại. Nhà thơ Tố Hữu đã có vần thơ rất hay nói về cái sang của Bác Hồ kính yêu:
"Mong manh áo vải hồn muôn trượng,
Hơn tượng đồng phơi những lối mòn”.
(Bác ơi)
"Tức cảnh Pác Bó” là một bài thơ hồn nhiên, giản dị mà sâu sắc, đẹp. Thơ là tâm hồn, là cuộc đời, là cách ứng xử của Bác Hồ. Bài tứ tuyệt viết về Pác Bó đã vượt qua một hành trình 60 năm. Nó như một chứng tích lịch sử về những ngày tháng gian khổ của cách mạng Việt Nam và của lãnh tụ nơi suối lạnh hang sâu đầu nguồn. Nó gợi lên trong lòng mỗi chúng ta bài học về tinh thần lạc quan yêu đời, biết sống và hướng về một lí tưởng cao đẹp.