Trang chủ Lớp 8 Ngữ văn lớp 8 Phân tích bài thơ “Vào nhà ngục Quảng Đông cảm tác”(l) của...

Phân tích bài thơ “Vào nhà ngục Quảng Đông cảm tác”(l) của Phan Bội Châu, Tại nhà ngục, ngay đêm đầu tiên, Cụ viết bài thơ Nôm thất ...

Nghị Luận Xã Hội Lớp 8 – Phân tích bài thơ “Vào nhà ngục Quảng Đông cảm tác”(l) của Phan Bội Châu. Tại nhà ngục, ngay đêm đầu tiên, Cụ viết bài thơ Nôm thất ngôn bát cú Đường luật để an ủi. động viên mình.

Advertisements (Quảng cáo)

Phan Bội Châu (1867-1940) là chiến sĩ cách mạng vĩ đại của dân tộc ta trong ba thập niên đầu thế kỉ XX. Mùa đông năm 1913, Cụ đang hoạt động cách mạng ta: Trung Quốc, đô đốc Quảng Đông đã bắt giam Cụ vào khám tử hình, âm mưu trao trả nhà cách mạng Việt Nam cho thực dân Pháp.

Tại nhà ngục, ngay đêm đầu tiên, Cụ viết bài thơ Nôm thất ngôn bát cú Đường luật để an ủi. động viên mình. Nhan đề bài thơ là “Vào nhà ngục Quảng Đông cảm tác”.

“Vẫn là hào kiệt, vẫn phong lưu,

Chạy mỏi chân thì hãy ở tù.

Đã khách không nhà trong bốn biển,

Lại người có tội giữa năm châu.

Bủa tay ôm chặt bồ kinh tế,

Mở miệng cười tan cuộc oán thừ.

Thân ấy vẫn còn, còn sự nghiệp,

Bao nhiêu nguy hiểm sợ gì đâu!”.

Bài thơ thể hiện khí phách hiên ngang, bất khuất và tinh thần lạc quan cách mạng của người chiến sĩ trong cảnh tù đày nguy hiểm.

1. Câu thơ thứ nhất có hai vế tiểu đối, điệp ngữ “vần” làm cho giọng thơ rắn rỏi, mạnh mẽ, khẳng định một tâm thế “hào kiệt” và “phong lưu”:

‘Vẫn là hào kiệt // vẫn phong lưu”.

“hào kiệt” là người có tài cao, chí lớn khác thường. “Phong lưu ” có nghĩa là dáng vẻ lịch sự, trang nhã; trong văn cảnh còn biểu lộ một phong thái ung dung tư tại và thanh cao. Câu thơ thứ hai, tác giả xem nhà ngục quân thù như một “bến đậu” sau những tháng ngày “chạy mỏi chân”, hoạt động sôi nổi, trải qua muôn vàn gian truân thử thách:

“Chạy mỏi chân thì hãy ở tù”.

Sau gần 10 năm bôn ba hải ngoại, tìm đường cứu nước (1905-1913), Phan Bội Châu lúc hoạt động ờ Nhật, lúc sang Thái Lan, lúc ở Trung Quốc. Bốn tiếng “thì hãy ở tù” nói lên một thái độ chủ động, bình tĩnh trước tai ương thử thách. Haỉ câu đề biểu thị một cốt cách kẻ sĩ anh hùng.

2. Hai câu trong phấn thực nói lên cảnh ngộ của một chiến sĩ cách mạng trong cảnh nước mất nhà tan, phải sống lưu vong nơi xa lạ (khách không nhà), lại bị tù tội. Đó là bi kịch lịch sử mà Phan Bội Châu và hàng nghìn chiến sĩ cách mạng nền bối đã trải qua. Hai câu 3, 4 đối nhau làm nổi bật tinh thần hi sinh xả thân vì độc lập tự do cho Tổ quốc, một chí lớn tung hoành trên một không gian địa lí mênh mông: “năm châu”, “bốn bể’:

“Đã khách không nhà trong bốn biển,

Advertisements (Quảng cáo)

Lại người có tội giữa năm chân”.

Hai mươi bảy năm sau (1940), trước lúc qua đời, ý thơ trên đã được tác giả nhắc lại như một nỗi niềm đau đớn:

“Những ước anh em đầy bổn bể,

Nào ngờ trăng gió nhốt ba gian”.

(Từ giã bạn bè lần cuối cùng)

3. Hai câu trong phần luận thể hiện niềm tự hào về tài kinh bang tế -thế (bồ kinh tế) giúp nước giúp dân, làm nên sự nghiệp lớn. Mối thù đối với lũ thực dân cướp nước và bọn phong kiến tay sai (cuộc oán thù) không bao giờ nguôi, quyết ‘cười tan”, rửa sạch:

“Bủa tay ôm chặt bồ kinh tế,

Mở miệng cười tan cuộc oán thù”.

Các từ ngữ hình ảnh: “bủa tay ôm chặt”, “mở miệng cười tan” nói lên một tư thế hào hùng, một quyết tâm sắt đá không gì lay chuyển nổi, sẵn sàng xả thân vì một lí tưởng cách mạng cao cả: giúp đời, cứu nước.

Nghệ thuật đối làm cho giọng thơ thêm đĩnh đạc hào hùng. Hình ảnh kì vĩ, các động từ gợi tá, (ôm chặt, cười tan) đã dựng nên bức chân dung tinh thần của một trang anh hùng hào kiệt trong cảnh tù đày nguy hiểm vẩn lạc quan, bất khuất.

4. Hai câu trong phần kết khẳng định một niềm tin mạnh mẽ, biểu lộ một khí phách hiên ngang. Tin mình vẫn tồn tại “vẫn còn”’, sự nghiệp cứu nước, cứu dân là chính nghĩa đang mở rộng ở phía trước. Chữ “còn” điệp lại hai lần, giọng thơ thêm hùng hồn, niềm tin tưởng lạc quan thêm chói sáng:

“Thân ấy vẫn còn, còn sự nghiệp,

Bao nhiêu nguy hiểm sợ gì đâu!”.

Đang bị gông cùm trong nhà ngục tử tù, là nguy hiểm. Nay mai phải bước ra pháp trường, là nguy hiểm… “Bao nhiêu nguy hiểm” máu cháy đầu rơi, thịt nátxương tan, nhưng đối với Phan Bội Châu thì “sợ gì đâu”. Trước vòng nguy hiểm vẫn hiên ngang thách thức, vẫn bất khuất, kiên cường: “Bao nhiêu nguy hiểm sợ gì dâu”. Phan Bội Châu đã thể hiện một tâm thế “uy vũ bất năng khuất” của nhà cách mạng chân chính.

“Vào nhà ngục Quảng Đông cảm tác” đã thể hiện những phẩm chất cao đẹp của người chiến sĩ vĩ đại: giàu lòng yêu nước, hiên ngang, bất khuất, lạc quan trong tù đày nguy hiểm. Bài thơ có ngôn từ trang trọng, giọng điệu mạnh mẽ hùng hồn làm hiện lên bức chân dung tinh thần tự họa của “bậc anh hùng, vị thiên sứ, đấng xả thân vì độc lập, được 20 triệu con người trong vòng nô lệ tôn sùng” như Nguyễn Ái Quốc đã ca ngợi.

“Vào nhà ngục Quảng Đông cảm tác’ là viên ngọc quý trong thơ văn Phan Bội Châu, một khúc tráng ca anh hùng của nền thơ văn yêu nước và cách mạng Việt Nam.