Trang chủ Lớp 8 Ngữ văn lớp 8 Soạn bài Ông Đồ trang 8 SGK Văn 8 – Văn 8

Soạn bài Ông Đồ trang 8 SGK Văn 8 – Văn 8...

Ông Đồ – Vũ Đình Liên – Soạn bài Ông Đồ trang 8 SGK Văn 8. 3. Cái hay của bài thơ nằm ở hai mặt nội dung và nghệ thuật, cũng như sự thống nhất hai mặt đó.

Advertisements (Quảng cáo)

1. Bốn khổ thơ đầu khắc họa hình ảnh ông đồ trong cùng mốc thời gian đó là mùa xuân, gắn liền với “giấy đỏ”, “mực tàu” nhưng đà ở hai cảnh ngộ khác nhau.

“Mỗi năm hoa đào nở” — đó là dấu hiệu của mùa xuân về. Với “mực tàu giấy đỏ”, những câu đối Tết.. ông đồ là hình ảnh quen thuộc, không thể thiếu trong bức tranh toàn cảnh mùa xuân, khi Nho học còn thịnh hành: “Mỗi năm… lại thấy”. Không gian xung qưanh gợi vẻ ấm cung.h:èng liêng, đó là không gian của hoa đào nở tươi mới, cúa mực tàu sóng sánh, của giấy hồng điều giản dị.ềẻ Vài ba nét phác họa đơn sơ, chân dung ông đồ già hiện lên với tất cả vẻ đẹp thanh tao cao khiết

Ông đồ như hòa vào, góp vào sắc màu rực rỡ, không khí rộn ràng của phố phường đón Tết. Mực tàu, giấy đỏ của ông như hòa vào màu thắm cùa hoa đào nở, sự có mặt của ông đă thu hút bao nhiêu người. Đành ràng, với một kẻ sĩ, bán chữ – thứ chữ chỉ đế răn dạy, ngâm vịnh và cho nhau, là cực chảng đã. Song chữ ông còn đưọc trong, tài ông còn ! được khen, ông như một phần thiêng liêng của cuộc sống, một phản tôn vmh của mọi người. Bao nhiêu người tìm đến ông thuê viết chữ. hơn thế, đế thưởng thức sự tài hoa, để ái mộ tâm lực cúa ông. Vậy cũng đủ an ủi ông rồi. Bởi đó là cái tình của người đời. Vả lại “Bày mực tàu giấy đỏ” là ông đã chấp nhận thành kẻ bán và chừ là hàng hóa. Đã là hàng hóa thì cần có người mưa đông.

Nếu 2 khố đầu khắc họa hình ảnh ống đồ trong thời kỳ đắc ý, thời kỳ mà Tết đến, mọi ngựời đều mua câu đối đó hay vài chữ nho trên giấy hồng điều đế dán lên vách, cột nhà trang hoàng nhà cửa ngày Tết và trong lời chúc Tết lành, thì hai khổ tiếp là hình ảnh ông đồ đà ở kì mạt vận.

Vẫn là ông đồ ngày xưa, vẫn là giây đỏ, là nghiên, là mực nhưng sao không gian đó buồn thảm và trống vắng vậy. Còn đâu giấy thắm mực đượm mà chỉ là:

Giấy đỏ buồn không thắm

Mực đọng trong nghiên sầu

Giấy mực bẽ bàng trong tàn phai tủi sầu. Một loạt từ ngữ cùng trường nghĩa gợi vẻ tàn lụi buồn bã: buồn, không thắm, đọng, sầu.

Nếu trước là “Bao nliiêu người thuê viết” thì nay “Người thuế viết nay đâu”. Ông đồ bị đấy ra ngoài lề xã hội, rơi vào quên lãng. Bởi một thị hiếu thẩm mĩ đã chết một phong tục văn hóa bị bỏ quên, bởi một thời đại đà đổi thay, bời người đời vô tình vô cảm. Khố 4 vẽ ra một sự đối lập giừa cái tĩnh và cái động’.

ông đồ – người qua đường giấy – lá red, mưa bay

tạo nên dáng vẻ bó gối bâ’t động của ông đồ. Ông đồ ngồi đấy, như một pho tượng, bên trang giấy bị phủ lá vàng. Mắt buồn rầu, ngơ ngác nhìn qua màn mưa bụi phủ mờ dòng người quíi đường… Đoạn thơ lời ít mà cảnh hiện ra như thước phim nối đặc tả giàu sức gợi. Nơi đất trời là mưa bụi, lá vàng rơi, nơi xã hội là người qua đường, còn nơi ông đồ là bút sầu mực tủi, giấy không thắm. Tất thảy đều vô tình, lạnh lùng trước nhừng giá trị bị coi là xưa cũ.

Sự đối lập hai cảnh ngộ của ông đồ đã gợi lên bóng dáng tiêu diều của một nền học thuật, của một truyền thống văn hóa khi đối charr. với nền vãn hóa hiện đại tư sản phương Tây.

Chính sự tương phản giữa hai cảnh tượng đó gợi cho người đoc r. – ngậm ngùi xót thương cho tình cảnh ông đồ:

“Còn duyên kê đón người dưa Hết duyên đi sớm về trưa một mình”.

2. Cảm xúc của tác giả là sự kết hợp giữa lòng thương người và tính hoài cổ. Cảm xúc đó được biểu lộ kín đáo qua những hình ánh miêu tả có khi lại được tác giả phát biểu trực tiếp, nhưng chủ yếu được toát ra từ giọng điệu ngậm ngùi của bài thơ. Cụ thể, đó là những cảm xúc:

+ Ngưỡng mộ nét tài hoa của một thế hệ nhà Nho, trân trọng nét đẹp văn hóa một thời cùa dân tộc.

Cảm thương, xót xa trước sự tàn tạ của thân phận con người

*    Luyến tiếc, nhớ nhưng cảnh cũ người xưa nay đã vắng bóng

–      Đày là nhừng trạng thái của cảm xúc đậm chất nhân văn, đánh động trong ta lòng xót thương số phận hẩm hiu của con người, nỗi buồn hoài cố, nuối tiếc một nét đẹp của đời sống tinh thần dân tộc một thòi, chạm đến một vấn đề có tính lịch sử, văn hóa: bi kịch cùa sự gặp gỡ Đòng – Tây.

3.  Cái hay của bài thơ nằm ở hai mặt nội dung và nghệ thuật, cũng như sự thống nhất hai mặt đó.

a.    Về mặt nội dung, thi phẩm đề cập đến vấn đề phô’ quát, có tính vĩnh cửu: số phận con người trong sự đối thay của cuộc đời. Vấn đề đó lại gắn chặt với niềm tiếc thương một nét đẹp văn hóa dân tộc khiến cho cảm xúc trong bài càng sâu sắc, mở rộng.

Nội dung cảm xúc đó tìm đến một hình thức nghệ thuật tương ứng.

b.   Về mặt nghệ thuật:

–     Thể thơ ngủ ngôn được sứ dụng, khai thác có hiệu quả nghệ thuật cao. Thể thơ này có khả năng biếu hiện phong phú, có thế tự sự (kểchuvện), miêu tả, triết lý… như nhiều thê thơ khác, nhưng dường như thích hợp nhất với việc diễn ta tâm tình sâu lắng. Giọng chú âm cua bài thơ là trầm lắng, ngậm ngùi, phù hợp với việc diễn tả tâm tư, cám xúc nhà thơ.

–     Kết cấu bài thơ giản dị mà chặt chè, có nghệ thuật. Đó là kết cấu đầu cuối tương ứng và có hai cảnh tượng tương phán sâu sắc cùng miêu ta ông đồ ngồi viết thuê bên lề phô ngày Tết, cách kêt cấu ây đã làm nối bật chủ đề bài thơ, thể hiện tình cảnh thất thế, tàn tạ đáng buồn cua ông đồ một cách đầy ám ảnh.

–     Ngôn ngữ bài thơ trong sáng, bình dị, đồng thời hàm súc, dư ba. Hình ảnh thơ cùng vậy, không có gì tân kỳ, “độc đáo”, nhưng đầy gợi cam. Chẳng hạn những câu Giấy đỏ buồn không thắm – Mực đọng trong nghiên sầu, hoặc Lá vàng rơi trẽn giấy – Ngoài trời mưa bụi bay, có thế coi là toàn bích, là ý tại ngôn ngoại. Chính vì chắt lọc, tinh luyện mà bài thơ tuy chỉ có một hình thức bình dị khiêm nhường, đà co một sức truyền cám nghệ thuật và sức sống mạnh mè, lâu dài.

4. Đây là những câu thơ hay nhất trong bài, thể hiện được tập trung nhất cảnh ngộ cùng như tâm trạng của ông đồ. Thơ tá cảnh mà chính là để bộc lộ tâm trạng.

Cảnh ngộ của ông đồ giờ đây đã khác trước, bị rơi vào quên lãng. Vì vậy, ông đồ vẫn ngồi đấy nhưng bút chắng được cầm, giấy chẳng được chạm. Vậy nên:

Giấy đỏ buồn không thắm

Mực đọng trong nghiên sầu

Nỗi buồn tủi lan sang ca những vật vô tri vô giác. Tờ giấy đỏ cứ phơi ra đấy mà chẩng được đụng đến trở thành bẽ bàng, màu đó cưa nó trở nên vô duyên, không thám lèn được, nghiẻn mực không được bút lông chấm vào nên đọng lại bao sầu tủi và trờ thành nghiền sầu. Bút pháp nhân hóa đã cho tháy nỗi sầu tui của con người thấm vào trong những vật dụng ngày thường.

Đến khố thơ sau, trên giấy đỏ ấy lại lác đác lá vàng.

Lá vàng rơi trẽn giấy

Ngoài trời mưa bụi bay

Lá vàng rơi vốn đà gợi sự tàn tạ, buồn bã, đây lại rơi trên tờ giấy dành viết câu đối của ông đồ và nằm tại đó vì giấy chưa được dùng đến. Ông đồ ế khách. Nhừng chiếc lá bất động trên cái chồ không phải của nó cho thấy cả một dáng vẻ bất động bó gối của ông đồ ngồi nhìn mưa bụi bay. Chỉ là mưa bụi bay rất nhẹ mà sao ảm đam và lanh lẽo vây. Mưa của thiên nhiên hay trong chính cõi lòng ảo não của con người? Dường như đất trời cũng am đạm, buồn não ruột với cảnh ngộ ông đồ.