Trang chủ Lớp 8 SBT Văn 8 - Cánh diều Đọc đoạn trích Đại cáo bình Ngô sau và thực hiện các...

Đọc đoạn trích Đại cáo bình Ngô sau và thực hiện các yêu cầu bên dưới: “Vừa rồi: Nhân họ Hồ chính sự phiền hà...

Đọc văn bản và thực hiện các yêu cầu. Trả lời Câu 8 trang 47, SBT Ngữ văn 8 Cánh diều, tập 1 - Bài 5: Nghị luận xã hội.

Câu hỏi/bài tập:

Đọc đoạn trích Đại cáo bình Ngô sau và thực hiện các yêu cầu bên dưới:

“Vừa rồi: Nhân họ Hồ chính sự phiền hà, Để trong nước lòng dân oán hận. Quân cuồng Minh đã thừa cơ gây họa, Bọn gian tà còn bán nước cầu vinh. Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn, Vùi con đỏ xuống dưới hầm tai vạ. Dối trời, lừa dân, đủ muôn ngàn kế, Gây binh, kết oán trải hai mươi năm. Bại nhân nghĩa nát cả đất trời, Nặng thuế khóa sạch không đầm núi. Người bị ép xuống biển dòng lưng mò ngọc, ngán thay cá mập, thuồng luồng, Kẻ bị đem vào núi đãi cát tìm vàng, khốn nỗi rừng sâu, nước độc. Vét sản vật, bắt dò chim trả, chốn chốn lưới chăng, Nhiễu nhân dân, bắt bẫy hươu đen, nơi nơi cạm đặt. Tàn hại cả giống côn trùng cây cỏ, Nheo nhóc thay kẻ góa bụa khốn cùng. Thằng há miệng, đứa nhe răng, máu mỡ bấy no nê chưa chán, Nay xây nhà, mai đắp đất, chân tay nào phục dịch cho vừa. Nặng nề những nỗi phu phen, Tan tác cả nghề canh cửi. Độc ác thay, trúc Nam Sơn không ghi hết tội, Dơ bẩn thay, nước Đông Hải không rửa sạch mùi. Lẽ nào trời đất dung tha, Ai bảo thần nhân chịu được?

a) Đoạn trích trên thể hiện nội dung gì của bài đại cáo?

b) Tác giả đã tố cáo những tội ác nào của kẻ thù? Mục đích của sự tố cáo đó là gì?

c) Tình cảm, thái độ của Nguyễn Trãi được thể hiện rất rõ trong đoạn trích trên. Hãy phân tích để thấy được điều đó.

d) Hãy chỉ ra một biện pháp nghệ thuật được tác giả sử dụng trong đoạn trích bài đại cáo.

e) Đoạn trích trên được viết theo thể văn gì? Hãy chỉ ra một vài đặc trưng của thể văn đó được thể hiện trong đoạn trích.

Method - Phương pháp giải/Hướng dẫn/Gợi ý

Đọc văn bản và thực hiện các yêu cầu

Answer - Lời giải/Đáp án

a, Đoạn trích (đây là phần thứ hai trong bố cục bốn phần của bài đại cáo) là sự tiếp tục một cách có hệ thống nội dung của phần 1 (nêu luận đề chính nghĩa và niềm tự hào dân tộc) nhằm vạch trần âm mưu thâm độc, giả nhân, giả nghĩa của nhà Minh, lên án chủ trương cai trị khắc nghiệt của chúng và tố cáo mạnh mẽ tội ác diệt chủng, hủy hoại văn hóa Đại Việt của kẻ thù xâm lược.

b, Tác giả tố cáo những âm mưu, tội ác của giặc Minh:

- Âm mưu: Nguyễn Trãi vạch trần âm mưu xâm lược của giặc Minh, vạch trần luận điệu phù Trần diệt Hồ bịp bợm âm mưu thôn tính nước ta vốn có từ lâu trong tư tưởng của "thiên triều”.

- Tội ác:

Hủy hoại con người bằng hành động diệt chủng, tàn sát người vô tội.

Bóc lột nhân dân, vơ vét của cải, hủy hoại cả môi trường sống.

- Âm mưu xâm lược nước ta là thâm độc nhất, tội ác tàn sát, giết hại nhân dân là man rợ nhất.

Mục đích: Bản cáo trạng tội ác của kẻ thù trước bàn dân thiên hạ này nhằm làm cho mọi người thấy rõ âm mưu, tội ác có tính hệ thống với mục đích hủy diệt dân tộc, xóa bỏ nền văn hóa của Đại Việt. Đây cũng là bước chuẩn bị cho phần tiếp theo của bài đại cáo (nêu lên tính nhân nghĩa vì dân của khởi nghĩa Lam Sơn, ca ngợi cuộc kháng chiến thần thánh của dân tộc đánh đuổi quân xâm lược, bảo vệ độc lập, tự do của Tổ quốc, đem lại nền thái bình, cuộc sống ấm no cho người dân).

c, Tình cảm, thái độ của tác giả được thể hiện rất rõ trong phần tố cáo âm mini và tội ác của kẻ thù. Đó là thái độ mạnh mẽ trong việc vạch trần âm mưu thâm độc của quân Minh, lợi dụng việc nhà Hồ lật đổ nhà Trần để đưa quân sang xâm lược nước tại đó cũng là thái độ lên án gay gắt tội ác của chúng đối với nhân dân Đại Việt nền văn hóa, văn minh Đại Việt. Tất cả tạo nên lòng uất hận, sự căm thù quân xâm lược đến tận xương tủy, thể hiện tình cảm xót thương vô hạn trước sự đau khổ, bản cùng của dân chúng.

Advertisements (Quảng cáo)

Phân tích:

Phân tích đoạn 2 Bình ngô đại cáo mới thấy rõ, chỉ qua 5 câu thơ ngắn ngủi, nhưng tác giả đã lột tả được toàn bộ bức tranh xã hội rối ren lúc bấy giờ. Đó là những người lãnh đạo, đứng đầu đất nước đang bị thôn tính, nhu nhược, tham lam, chia bè chia phái, khiến lòng dân oán hận. Trong khi đó, bên ngoài giặc Minh lăm le dòm ngó bấy lâu thừa cơ gây loạn. Chính sự nhiễu nhương kết hợp với bè lũ bán nước và cướp nước đã ép buộc Đại Việt vào thế phải binh đao. Nguyễn Trãi là nhà chính trị nên một lập luận ông nêu đều vô cùng sắc bén và hợp lý.

Đoạn thơ này cho thấy rõ, âm mưu xâm lược của giặc Minh và bọn gian tà bán nước cầu vinh.

Vì lý do đó mà Đại Việt lâm nguy. Lũ bán nước, cướp nước ra sức hành hạ dân đen, gây ra bao tội lỗi. Sau khi đánh chiếm được nước ta, giặc Minh đô hộ Đại Việt trong suốt hai mươi năm với những chính sách vô cùng hà khắc, tàn bạo.

“…Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn Vùi con đỏ xuống dưới hầm tai vạ.... Nặng nề những nỗi phu phen Tan tác cả nghề canh cửi”.

Chứng kiến những cảnh xót xa của nhân dân, chính trị gia có trái tim nhân ái Nguyễn Trãi đã khẳng khái khẳng định tội ác của quân giặc là “Bại nhân nghĩa nát cả đất trời”. Câu thơ như vừa thể hiện nỗi đau thấu tim gan của tác giả vì thương dân, vừa như lời đay nghiến quân giặc. Những hành vi bạo tàn của chúng không phải là do con người gây ra nữa. Chúng dối trời, lừa dân. Chúng không chỉ vơ vét của cải, sức người sức của mà còn hủy hoại cả môi trường, tàn phá cả những con côn trùng cây cỏ. Hơn thế, chúng thẳng tay tàn sát dân đen, những con người vô tội, thiện lương. Những con người quanh năm gắn bó ruộng đồng, hiền từ, đức độ. Ấy vậy mà chúng cũng giày xéo không tha. Với lối liệt kê hàng loạt, liên tiếp những hành động bào tàn của giặc, tác giả như đang tuôn trào bao cảm xúc giận giữ cảm thù. Xúc cảm ấy cũng là xúc cảm chung của toàn dân Đại Việt lúc bấy giờ. Chỉ muốn vùng lên để đấu tranh, chống lại kẻ thù.

Phân tích đoạn 2 Bình ngô đại cáo, càng thấy sự khéo léo trong cách sử dụng biện pháp nghệ thuật văn học của Nguyễn Trãi. Ông đã sử dụng phép nhân hóa đặc tả để vạch mặt tội ác thâm độc của quân cướp nước. Có sống giữa thời ấy, có lớn lên trong cảnh bạo ngược ấy mới thấy rõ quân giặc chẳng khác gì thú vật, coi mạng người như cỏ rác.

Một lần phân tích đoạn 2 Bình ngô đại cáo là một lần độc giả cảm thấy rùng rợn trước cảnh tượng tang của người dân Đại Việt năm xưa. Tưởng như chỉ là cảnh trong các bộ phim cổ trang, nhưng hóa ra lại là sự thật hiển nhiên, lịch sử ghi chép.

“Độc ác thay, trúc Nam Sơn không ghi hết tội,Dơ bẩn thay, nước Đông Hải không rửa sạch mùi!Lòng người đều căm giận,Trời đất chẳng dung tha”

Sự độc ác tày đình của quân xâm lược không chỉ khiến dân chúng oán thán mà còn khiến cả thiên nhiên phẫn nộ, đến đại dương cũng không rửa sạch mùi dơ bẩn, đến đất trời cũng không thể dung tha. Với lối dùng vế đối cân xứng, “độc ác- dơ bẩn”, “trúc Nam Sơn- nước Đông Hải”, “lòng người- trời đất”… tác giả như càng nhấn mạnh thêm sự sai trái của cuộc chiến tranh phi nghĩa. Ông mang cả những vật vô tri vô giác là thiên nhiên vào để khẳng định việc trà đạp lên mạng sống của người khác là tội không thể tha. Ông càng chứng tỏ rằng, không riêng gì con người mà mỗi loài sinh ra trong cõi đời đều có quyền được sống.

Có thể nói, khi phân tích đoạn 2 Bình ngô đại cáo, người đọc như đang xem một bộ phim lịch sử thấm đẫm máu và nước mắt. Ở đó có những đau thương mất mát của dân tộc mà không gì có thể bù đắp được. Nhưng độc giả cũng có thể cảm nhận được sự kiên cường, bất khuất của nhân dân Đại Việt. Với lời văn đanh thép, hùng hồn, tuôn trào trong từng câu chữ, hình ảnh, chính trị gia Nguyễn Trãi một lần nữa lên án gắt gao tội ác của quân giặc.

d, - Tác giả sử dụng nghệ thuật liệt kê sự việc theo một trình tự rất logic: từ vạch trần âm mưu thâm độc, lên án chủ trương cai trị khắc nghiệt đến tố cáo mạnh mẽ những hành động tội ác.

- Nghệ thuật đối: việc tạo các phép đối và nhịp của các câu văn biền ngẫu trong đoạn trích, từng cặp từng cặp một đã tạo cho bài đại cáo mang âm hưởng của một bản cáo trạng tội ác của kẻ thù với nhân dân Đại Việt khi dân tộc phải sống dưới ách nô lệ của giặc Minh.

e,

- Đoạn trích trên được viết theo thể văn biền ngẫu

- Đặc trưng:

+ Đối theo bằng trắc, từ loại tạo nên vần điệu theo từng cặp câu một.

+ Câu 4 chữ đối với câu 4 chữ, câu 6 chữ đối với câu 6 chữ hoặc câu 4/4 và câu 6/6 đối nhau

+ Sử dụng điển cố

+ Sử dụng từ ngữ bóng bẩy có tính phô trương