1. Sau hai câu thơ mở đầu rất bình dị, tự nhiên, tác giả giới thiệu chung về làng quê của mình, nội dung hầu như chi có ý nghĩa thông tin, tiếp đến 6 câu miôu tả cánh “trai trảng bơi thuyền đi đánh ca’ một buối “sớm mai hồng” rộng rãi, khoáng đạt.
Đó là những câu thơ đẹp, đã mớ ra cảnh tượng bầu trời cao rộng, trong tréo, nhuốm nắng hồng bình minh: trên đó, nổi bật lên hình ảnh đoàn thuyền băng mình ra khơi:
Khi trời trong, gió nhẹ, sớm mai hồng,
Dán trai tráng bơi thuyền đi đánh cá
Chiếc thuyền nhẹ hăng như con tuấn mã
Phăng mái chèo vội vã vượt trường giang
Hình ảnh so sánh (con tuấn mã) và một loạt từ ngữ: hăng, phăng. vượt... diễn tả đầy ấn tượng- khí thế băng tới dùng mãnh cua con thuyền ra khơi, toát lên một sức sống mạnh mè, một vẻ đẹp hùng tráng bất ngờ. Bốn câu thơ vừa là phong cảnh thiên nhiên tươi sáng, vừa là bức tranh lao động đầy hứng khởi và dào đạt sức sống cùa ngưởi làng chài chinh phục sông nước.
Hai câu tiếp theo miêu tả cánh buồm thuyền chài càng rất đẹp, một vẻ đẹp đầy lãng mạn với sự so sánh độc đáo bất ngờ:
Cánh buồm trương to như mảnh hồn làng
Rướn thân trắng bao la thâu góp gió
Hình ảnh cánh buồm trắng căng gió biển khơi quen thuộc bỗng trớ nên lớn lao, thiêng liêng, vừa thơ mộng vừa hùng tráng. Tế Hanh như nhận ra đó chính là biểu tượng của linh hồn làng chài. Nhà thơ vừa vẽ ra chính xác cái hình, vừa cảm nhận được cái hồn của sự vật. Sự so sánh ớ đây không chỉ làm cho việc miêu ta được cụ thế hơn mà đã gợi ra một vẻ đọp bay bông, mang ý nghĩa lớn lao. Liệu có hình ánh nào diễn ta được chính xác, giàu ý nghĩa và đẹp hơn để biểu hiện linh hồn làng chài bang hình ánh cánh buồm trắng trương lo no gió biển khơi bao la đó?
Khổ 3 là cảnh dân làng chài đón thuyền cá trò’ về, một bức tranh lao động náo nhiệt, đầy áp niềm vui và sự sống: toát ra từ không khí ồn ào, tấp nập đông vui, từ những chiếc ghe đầy cá, từ những con cá tươi ngon thân bạc trắng thật thích mắt, cả từ lời cám tạ chân thành đất trời đà sóng yên “biển ìặng” che chở người đi chài trỏ’ về an toàn vói “cú dầy ghe”...
Khố thơ sau rất đặc sắc, miêu tả người dân chài và con thuyền nằm nghi trên bến sau chuyến ra khơi. Câu đầu (Dân chài lưới làn da ngăm rám nắng) là tả thực, câu sau là sáng tạo độc đáo, gợi tá, rất thú vị: Cả thân hình nồng thở vị xa xăm. Thể hiện người lao động làng chài, nhưng đứa con của biển khơi, có nhừng nét: nước da ngăm nhuộm nắng nhuộm gió, thân hình vạm vỡ và thấm đượm vị mặn mòi, nồng tỏa "vị xa xăm” của biển khơi. Hình ảnh người dân chài vừa chân thực vừa làng mạn và trở nên có tầm vóc.
Hai câu tiếp theo miêu tả chiếc thuyền nằm im trên bến sau khi vại lộn với sóng gió trờ về cùng là sáng tạo nghệ thuật (lộc đáo như vây Tác giá không chi thấy con thuyền đang nam im trên bến mà còn “thấy” sự một mói say sưa (lời Hoài Thanh) của con thuvền. Tac gi.ì còn cám thây con thuyền ây như đang lắng nghe chất muối thấm dần trong thớ vỏ của nó. Con thuyền vô tri đã trở nên có hồn, một tâm hồn rất tinh tế. Cũng như người dân chài, con thuyền lao động ấy cũng thấm đậm vị muối mặn của biển khơi. Không có một tâm hồn tinh tê, tài hoa va nhất là nếu không có tấm lòng gắn bó sâu nặng với con người cùng cuộc sống lao động làng chài quê hương thì không thể có những câu thơ xuất thần như vậy.
Advertisements (Quảng cáo)
2. Trong bài thơ, tác giả đã khắc họa được hình ảnh quê hương mình và người dàn làng chài rất gợi cảm thông qua thủ pháp so sánh độc đáo. Ví như:
- Cánh buồ/ii giương to như mảnh hồn làng Rướn thân trắng bao la thâu góp gió...
- Dân chài lưới làn da ngăm rám nắng,
Cả thân hình nồng thở vị xa xăm
Cánh buồm trắng khi no gió phồng căng lên đầy gợi cảm. Vóc dáng cường tráng, khoáng đạt của cánh buồm chính là hơi thở của con thuyền, là linh hồn của những người điều khiển nó, là biểu tượng của hồn làng chài. Ờ đây nhà thơ đã so sánh hình ảnh -cánh buồm, vật cụ thể hữu hình với mảnh hồn làng, cái trừu tượng vô hình. Vì vậy, nét tinh thần riêng của làng chài dược hình tượng hóa bằng một hình ảnh cụ thế mà bay bổng và giàu ý nghĩa lớn lao. Thể chất cường tráng, mạnh mè, tính cách hiên ngang, phóng khoáng, khát khao bay bổng và hùng tráng ớ người dân chài đã lộ rõ trong cánh buồm trắng ấy.
Hai câu sau miêu tả hình ảnh người dân chài - người lao động bình thường. Nhưng với sự sáng tạo độc đáo và gợi tả, Tế Iĩanh đã nâng cao tầm vóc của họ ờ tư thế của đứa con biển cả kiên cường dũng cám lập nên Iihừng kì công đáng khảm phục. Người dân chài ở đây được khắc tạc như một bức tượng đài có hình khắc, màu sắc và vị đặc trưng của biển cả. Đó là những con người có làn da rám nắng nhuôm gió vật lộn từng trải, thân hình chắc khỏe, nồng tỏa “vị xa xăm” của biển khơi. “Vị xa xăm” đó là gì nếu không phải vị mặn môi, nồng đậm của biển cả, hơn thế, đó còn là mùi vị, là hoi thở của đại dương, của chân trời tít tắp.
3. Để vẽ ra một bức tranh làng què miền biển khỏe khoắn, đặc biệt khắc họa chân thực và sinh động hình ảnh người dân chài cũng như sinh hoạt lao động của làng chài như vậy, rõ ràng Tế Hanh phải có một tâm hồn tinh tế và tài hoa, một tấm lòng gắn bó sâu nặng với quê hương, một nỗi nhớ thương da diết, nồng hậu về vùng quê sông nước bao la đó.
4. Quê hương là bài thơ trữ tình, nhưng 4/5 số khổ thơ lại chủ yếu là phương thức miêu tả. Ngay trong 4 câu khố kết, phương thức biếu đạt chủ yếu là biểu cảm, nhưng hai câu giữa cũng là miêu tả. Song đây vẫn là thơ trữ tình, mà phương thức biểu đạt chủ yếu là biểu cảm, hởi lẽ toàn bộ hệ thống hình ảnh miêu tả chi là tái hiện phong cảnh, cuộc sống và người dân làng chài quê hương trong nỗi nhớ của chủ thể trư tình. Như vậy, yếu tố miêu tả ớ đây là phục vụ cho biển cả”, trữ tình, dù chiếm một tỷ lệ lớn trong tác phẩm. Mặt khác, ngòi bút miêu tả của tác giả ở đây không khách quan chủ nghĩa, mà trái lại bay bổng cảm hứng, cảm xúc chú quan. Như vậy mới có nhừng so sánh đẹp, bay bống, mới me, có những chỏ sử dụng biện pháp nhân hóa một cách độc đáo, thổi linh hồn cho sự vật, khiến sự vật có một vẻ đẹp, một ý nghĩa, một tầm vóc bất ngờ.
- Có thể nói, nét đặc sắc nghệ thuật nổi bật nhất của bài thơ này là ở sự sáng tạo hình ảnh thơề Bài thơ khá phong phú hình ánh. Có nhừng hình ảnh miêu tả chân xác không tô vè, chân xác đến từng chi tiết, khiến người đọc như trông rõ mồn một cảnh được miêu tá (khố một, hai câu đầu khô 2, khố 3, hai câu giừa khố cuối): nhưng lại có nhừng hình ảnh bay bổng, đầy lãng mạn, rất có hồn như trên đã phán tích. Hoàn Thanh nhận xét rất tinh: ‘Tôi thấy Tế Hanh là một người tinh lắm. Tế Hanh đã ghi được đôi nét rất thân tình về cảnh sinh hoạt chốn què hương. Người nghe thấy cả những điều không hìnli sắc, không thanh ăm như “mảnh hồn làng” trên “cánh buồm giương”, như tiếng hát của ìuỉơng đồng quyến rũ con đường quê nho nhỏ.
Ngoài ra, nhà thơ sử dụng nghệ thuật so sánh rất tinh tế, góp phần tạo ra những hình ảnh gợi cản.
Thêm nữa, ngôn từ gián dị mà giàu cảm xúc, khơi gợi được nhiều liên tưởng.
II. Luvện tập
2. Sưu tầm, chép lại nhừng bài thơ về tình cảm quê hương mà em yêu thích nhất (Gợi ý: Nhớ con sông quê hương (Tế Hanh), Quê hương (Giang Nam), Mẹ Tơm (Tố Hữu), Bên kia sông Đuống (Hoàng Cầm), Việt Bắc (Tô Hữu)...