Trang chủ Lớp 8 SGK Lịch sử và Địa lí lớp 8 - Cánh diều Câu hỏi Vận dụng trang 26 Lịch sử và Địa lý 8...

Câu hỏi Vận dụng trang 26 Lịch sử và Địa lý 8 Cánh diều: Sưu tầm tư liệu về quá trình xác lập và thực thi chủ quyền đối với quần đảoHoàng Sa và quần đảo Trường Sa dưới...

Sưu tầm tư liệu trên sách, báo, internet. Giải chi tiết Câu hỏi Vận dụng trang 26 sách giáo khoa Lịch sử và Địa lý 8 Cánh diều - Bài 5. Quá trình khai phá của Đại Việt trong các thế kỉ XVI - XVIII.

Sưu tầm tư liệu về quá trình xác lập và thực thi chủ quyền đối với quần đảoHoàng Sa và quần đảo Trường Sa dưới thời các chúa Nguyễn. Giới thiệu tưliệu đó với thầy cô và bạn học.

Method - Phương pháp giải/Hướng dẫn/Gợi ý

Sưu tầm tư liệu trên sách, báo, internet,…

Answer - Lời giải/Đáp án

Giới thiệu về tập Thiên Nam tứ chí lộ đồ thư và bản đồ vẽ quần đảoHoàng Sa

Đỗ Bá, làm quan được một thời gian, vào khoảng năm Chính Hòa (1680 - 1705), ông từ quan, giả dạng người buôn sông Lam, vượt vùng biển Thuận Quảng (nay là dải đất từ Quảng Bình đến Phú Yên), qua các nước Chiêm Thành, Chân Lạp, xem xét núi sông, đường biển xa gần, vẽ bản đồ mang ra Bắc, hiến kế Nam chinh mở rộng biên cương. Chúa Trịnh Cán rất mừng, mang bản đồ cất đi. Lại trưng dụng ông soạn vẽ cho “Tứ chí lộ đồ” hay còn gọi là bộ sách Toàn tập Thiên Nam tứ chí lộ đồ thư. Trong sách có ghi chép và vẽ bản đồ về Bãi Cát Vàng (tức đảo Hoàng Sa) và khẳng định đảo này thuộc về Đại Việt.

Đây là sách ghi chép và bản đồ đầu tiên khẳng định quần đảo Hoàng Sa là của Việt Nam. Tập “Tứ chí lộ đồ” do Đỗ Bá Công Đạo vẽ có: 53 phủ, 181 huyện, 49 châu, 14 làng, 8.992 xã, 205 thôn, 335 trang, 451 sách, 43 sở, 442 động, 41 trại. 67 phường, 10 vạn, 8 nhà, 2 tuần, 1 quan, 2 giác, 15 nguyên, 15 châu. Riêng Thuận Hóa có 2 phủ, 8 huyện, 4 châu, Quảng Nam có 3 phủ 9 huyện. Trong tập bản đồ này có rất nhiều thông tin về chủ quyền lãnh thổ quốc gia, đặc biệt là bản đồ quần đảo Hoàng Sa.

Advertisements (Quảng cáo)

Trong “Tứ chí lộ đồ” có quyển “Đường từ phủ Phụng Thiên đến Chiêm Thành” có phần vẽ và chú giải bằng chữ Nôm về hai quần đảo Hoàng Sa - Trường Sa ngày nay như sau:

“Ở khu vực phủ Thăng Hoa và phủ Quảng Ngãi phía ngoài biển hình bãi cát kéo dài từ cửa Đại Chiêm đến cửa Sa Kỳ với tên gọi Bãi Cát Vàng.

Và ghi rõ: “... hai núi, mỗi núi đều có mỏ vàng, có cơ quan tuần sát. Giữa biển có một dải cát dài, gọi là Bãi Cát Vàng. Dài độ 400 dặm, rộng 20 dặm, đứng dựng giữa biển. Từ cửa biển Đại Chiêm đến biển Sa Vinh, mỗi lần có gió Tây Nam, thì thương thuyền các nước đi ở phía trong trôi dạt ở đấy; gió Đông Bắc thì thương thuyền chạy ở ngoài cũng trôi dạt ở đấy, đều cùng chết đói hết cả. Hàng hóa thì đều để nơi đó. Họ Nguyễn mỗi năm vào tháng cuối mùa đông đưa 18 chiếc thuyền đến đấy lấy hàng hóa, được phần nhiều là vàng bạc, tiền tệ, súng đạn. Từ cửa Đại Chiêm vượt biển đến đấy thì phải một ngày rưỡi. Từ cửa Sa Kỳ đến đấy thì phải nửa ngày. Chỗ bãi cát dài ấy cũng có đồi mồi. Ngoài cửa biển Sa Kỳ có một hòn núi, trên núi sản xuất phần nhiều là cây dầu, gọi là Trường dầu, có đặt quan tuần sát.....

Nho sinh trúng thức họ Đỗ Bá, tự Đạo Phụ phủ ở Bích Triều (Thanh Giang) biên soạn”.

Bãi Cát Vàng là tên gọi nôm na mà nhân dân xứ Đàng Trong đặt cho 2 quần đảo san hô, chuyển sang âm Hán Việt là “Hoàng Sa”, “Hoàng Sa chử”. Tên gọi “Hoàng Sa”, “Hoàng Sa chử” được thông dụng trong các văn kiện thời Lê và thời Nguyễn, như trong Đại Nam Thực lục, Đại Nam nhất thống chí, Đại Nam nhất thống toàn đồ, chỉ chung cả hai quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa ngày nay. Đây là một tập tài liệu quý giá chứng minh chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo này.

“Tứ chí Lộ đồ” là một tài liệu chính thức của quốc gia, phản ánh cương giới xứ Đàng Trong do chúa Nguyễn quản lý từ cuối thế kỷ XVI, đã mở rộng ra vùng quần đảo ở Biển Đông. Đây là một trong những chứng cứ quan trọng khẳng định chủ quyền Việt Nam trên Biển Đông, đặc biệt là 2 quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa.