Dưới thời Trần, nhân dân Đại Việt phải đương đầu với một thử thách hiểm nghèo : trong vòng 30 năm phải tiến hành 3 lần kháng chiến chống quân xâm lược Mông - Nguyên hung bạo (1258, 1285, 1287 - 1288).
Dưới sự lãnh đạo của các vị vua Trần Thái Tông, Trần Thánh Tông, Trần Nhân Tông, Thái sư Trần Thủ Độ cùng hàng loạt vị tướng tài giỏi như Trần Quang Khải, Trần Khánh Dư, Trần Nhật Duật, Phạm Ngũ Lão v.v.. đặc biệt là nhà quân sự thiên tài Trần Quốc Tuấn (Trần Hưng Đạo), quân và dân Đại Việt đã đoàn kết, cầm vũ khí đứng lên chống giặc giữ nước.
Lời hịch của Tiết chế Trần Hưng Đạo có đoạn : “Ta thường tới bữa quên ăn, nửa đêm vỗ gối, ruột đau như cắt, nước mắt đầm đìa ; chỉ giận chưa thể lột da, ăn gan, uống máu quân thù ; dẫu cho trăm thân ta phơi ngoài nội cỏ, nghìn thây ta bọc trong da ngựa cũng nguyện xin làm.”
("Theo Thơ văn Lý — Trần)
Advertisements (Quảng cáo)
Kinh thành Thăng Long ba lần bị quân xâm lược tàn phá, bộ chỉ huy kháng chiến có lúc bị kẹp giữa hai gọng kìm của quân xâm lược, từ Nam đánh lên và từ Bắc đánh xuống. Nhưng, với ý chí kiên cường, với truyền thống yêu nước sâu sắc, nhân dân Đại Việt đã thực hiện lệnh của triều đình “nếu có giặc ngoài đến. phải liều chết mà đánh, nếu sức không địch nổi thì cho phép lẩn tránh vào rừng núi, không được đầu hàng”. Quân giặc đi đến đâu, nếu không bị đánh giết thì cũng chỉ thấy cảnh “vườn không nhà trống”. Cuối cùng, chúng phải chịu thất bại trong các trận Đông Bộ Đầu, Chương Dương, Hàm Tử, Tây Kết, Vạn Kiếp ở hai lần xâm lược 1258, 1285 và đau đớn nhất, nặng nề nhất là trận đại bại trên sông Bạch Đằng năm 1288 trong lần xâm lược thứ ba. Bạch Đằng nhất trận hoả công Tặc binh đại phá, huyết hồng mân giang.
(Bạch Đằng một trận hoả công Giặc kia tan tác, máu hồng đỏ sông.)
Chiến thắng Bạch Đằng mãi mãi ghi sâu vào lịch sử đấu tranh anh hùng của dân tộc Việt Nam, kết thúc thắng lợi cuộc kháng chiến chống quân xâm lược Mông - Nguyên của nhân dân ta.
Cùng thời gian này, năm 1282, quân Mông - Nguyên đóng thuyền đánh vào Cham-pa. Quân dân Cham-pa rút lui khỏi kinh thành và sau đó, dưới sự chỉ huy của Thái tử Ha-ri-gít, tập trung lực lượng đánh lui quân xâm lược. Một bộ phận của chúng phải rút lên phía bắc, theo sự điều động của nhà Nguyên đánh vào phía nam của Đại Việt.