1. Cách mạng bùng nổ. Nền quân chủ lập hiến
Sự khủng hoảng trầm trọng của nền tài chính quốc gia buộc Lu-i XVI phải triệu tập Hội nghị ba đảng cấp ngày 5 - 5 - 1789 tại cung điện Véc-xai để đề xuất vấn đề vay tiền và ban hành thêm thuế mới.
Phản đối ý định ban hành thuế mới của nhà vua, ngày 17-6, đại biểu Đẳng cấp thứ ba tự tuyên bố là Quốc hội, xem đây là cơ quan duy nhất thông qua các đạo luật tài chính. Tiếp đó, Quốc hội đổi thành Quốc hội lập hiến để lập ra chế độ mới và soạn thảo Hiến pháp. Vua và quý tộc phản ứng, ráo riết chuẩn bị tấn công Đẳng cấp thứ ba bằng bạo lực.
Bất bình trước hành động của nhà vua, ngày 14 - 7 - 1789, quần chúng nhân dân đã tự vũ trang, tấn công các trụ sở, các cơ quan quan trọng của thành phố và chiếm ngục Ba-xti - biểu tượng của chế độ phong kiến chuyên chế. Cách mạng đã bùng nổ ở Pháp.
Sự kiện ngày 14 - 7 ở Pa-ri đã kéo theo cuộc “cách mạng đô thị” ở các thành phố và phong trào nổi dậy ở nông thôn. Chính quyền mới thành lập nằm trong tay đại tư sản tài chính (chủ yếu là chủ ngân hàng, chủ thuyền buôn, các nhà công nghiệp và thương nghiệp lớn), được gọi là phái Lập hiến. Ngôi vua vẫn được duy trì.
Cuối tháng 8 - 1789, Quốc hội Lập hiến đã thông qua bản Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền với khẩu hiệu nổi tiếng : “Tự do - Bình đẳng - Bác ái”. Tuyên ngôn gồm 17 điều, thừa nhận quyền tự do, bình đẳng của con người và khẳng định chủ quyền của nhân dân, đồng thời tuyên bố quyền sở hữu là quyền thiêng liêng và bất khả xâm phạm. Nội dung cơ bản của Tuyên ngôn thấm nhuần tư tưởng cách mạng của các nhà triết học Ánh sáng Pháp thế kỉ XVII, đồng thời phản ánh ý chí và nguyện vọng của nhân dân Pháp.
Tiếp đó, Quốc hội Lập hiến ban hành nhiều chính sách nhằm khuyến khích công thương nghiệp phát triển như : bãi bỏ quy chế phường hội, cho phép tự do buôn bán, tổ chức hành chính theo quy chế mới (cả nước được chia thành 83 quận với cơ cấu tổ chức thống nhất, xoá bỏ thuế quan nội địa...).
Tuy vậy, cuộc sống của nhân dân lao động vẫn chưa được cải thiện : việc chia ruộng đất theo từng lô lớn đem bán với giá cao nên nông dân
không có khả năng mua ; công nhân vẫn đấu tranh đòi tăng lương, giảm giờ làm. Thêm vào đó, việc ban hành đạo luật cấm công nhân hội họp, bãi công... càng làm tăng sự bất mãn trong quần chúng nhân dân, nhiều cuộc đấu tranh liên tiếp diễn ra.
Tháng 9 - 1791, Hiến pháp được thông qua, xác lập quyền thống trị của giai cấp tư sản dưới hình thức quân chủ lập hiến.
Lu-i XVI, bề ngoài phê chuẩn Hiến pháp, thừa nhận chế độ quân chủ lập hiến, nhưng bên trong thì bí mật tìm mọi cách chống phá cách mạng : xúi giục các lực lượng phản động trong nước nổi loạn, câu kết với các thế lực phong kiến bên ngoài (Áo, Phổ) chuẩn bị tấn công nước Pháp cách mạng nhằm khôi phục chế độ chuyên chế và trật tự phong kiến.
Tháng 4 - 1792, chiến tranh giữa Pháp và liên quân phong kiến Áo - Phổ bùng nổ.
Trước tình hình đó, ngày 11 - 7 - 1792, Quốc hội tuyên bố “Tổ quốc lâm nguy” và ra sắc lệnh động viên quân tình nguyện. Hưởng ứng lời kêu gọi, hàng vạn quân chúng tự vũ trang tiến về Pa-ri, hát vang bài "Mácxâye”) đầy khí thế chiến đấu. Cách mạng Pháp phát triển sang giai đoạn mới.
2.Tư sản công thương cầm quyền. Nền cộng hoà được thành lập
Ngày 10 - 8 - 1792, không khí cách mạng bao trùm khắp Pa-ri. Các công xã cách mạng được thành lập, nắm toàn bộ chính quyền trong thành phố. Nhân dân Pa-ri, được sự hỗ trợ của các địa phương, đã tấn công hoàng cung, bắt giam vua và hoàng hậu. Chính quyền chuyển sang tay tư sản công thương được gọi là phái Girôngđanh V). Một quốc hội mới được bầu ra theo chế độ phổ thông đầu phiếu cho tất cả nam giới từ 21 tuổi trở lên.
Ngày 21 - 9 - 1792, Quốc hội khai mạc, tuyên bố phế truất nhà vua, thiết lập nền Cộng hoà thứ nhất. Ngày 21 - 1 - 1793, vua Lu-i XVI bị xử chém vì tội phản quốc.
Sau này, bài Mácxâye trở thành Quốc ca của nước Pháp.
Phái này đại diện cho phần lớn tư sản công thương ở quận Gi-rông-đơ, vùng Tây Nam nước Pháp.
Advertisements (Quảng cáo)
Đầu năm 1793, nước Pháp đứng trước những thử thách nặng nề. Bên trong, bọn phản cách mạng nổi loạn, đời sống nhân dân sa sút do nạn đầu cơ tích trữ và chiến tranh kéo dài, sản xuất bị đình trệ. Bên ngoài, các nước phong kiến châu Âu, được sự hỗ trợ của quân Anh, liên minh với nhau chống lại nền cộng hoà non trẻ.
Phái Girôngđanh, sau khi đạt được mục đích, không muốn đưa cách mạng tiến xa hơn, làm thiệt hại đến quyền lợi của tư sản. Chỉ những người thuộc phái GiacôbanhV đại diện cho tầng lớp tư sản vừa và nhỏ, gần gũi với những người tiểu tư sản và bình dân là muốn đẩy cách mạnh tiếp tục đi lên nhằm giải quyết triệt để những yêu cầu của quần chúng.
Ngày 31 - 5 - 1793, hưởng ứng lời kêu gọi của ủy ban khởi nghĩa, quần chúng cách mạng ở Pa-ri đã kéo đến bao vây trụ sở Quốc hội. Ngày 2-6, nhiều đại biểu Girôngđanh bị bắt. Chính quyền chuyển sang tay phái Giacôbanh.
3. Nền chuyên chính Giacôbanh - đỉnh cao của cách mạng
Chính quyền Giacôbanh (đứng đầu là Luật sư Rô-be-spie - người có tinh thần cách mạng triệt để và tích cực bảo vệ quyền lợi của quần chúng nhân dân) được thiết lập trong bối cảnh nước Pháp bị đe doạ nghiêm trọng. Trong nước, bọn phản cách mạng luôn quấy rối, đời sống nhân dân ngày càng khó khăn. Ngoài mặt trận, sự thất bại của quân Pháp đã tạo đà cho quân đồng minh phong kiến vượt qua biên giới tràn vào nước Pháp, quyết tâm “bóp chết” nền cộng hoà.
Để đưa đất nước thoát khỏi cơn hiểm nghèo, việc đầu tiên mà những người Giacôbanh quan tâm là phải giải quyết vấn đề ruộng đất - đòi hòi cơ bản của quần chúng nông dân ; qua đó, động viên họ tham gia cách mạng chống thù trong, giặc ngoài.
Đạo luật ngày 3-6 quy định tịch thu ruộng đất của quý tộc phong kiến chia thành nhiều mảnh nhỏ, bán theo phương thức trả dần trong 10 năm. Do vậy, mỗi nông dân đều có quyền sở hữu một mảnh ruộng.
Tháng 6 - 1793, Hiến pháp mới được thông qua, tuyên bố chế độ cộng hoà, ban bố quyền dân chủ rộng rãi và mọi sự bất bình đẳng về đẳng cấp bị xoá bỏ.
Ngày 23 - 8 - 1793, Quốc hội thông qua sắc lệnh “Tổng động viên toàn quốc” để huy động sức mạnh của nhân dân cả nước chống “thù trong, giặc ngoài” ; ban hành luật giá tối đa đối với lương thực, thực phẩm để chống nạn đầu cơ tích trữ, đồng thời ban hành luật về mức lương tối đa của công nhân. Hưởng ứng lệnh tổng động viên, 42 vạn người đã tình nguyện tham gia đội quân cách mạng. Nhờ vậy, phái Giacôbanh đã dập tắt được các cuộc nổi loạn và giành nhiều thắng lợi trên chiến trường, đuổi quân xâm lược ra khỏi biên giới. Cách mạng Pháp đã đạt tới đỉnh cao.
Trong khi cách mạng đang giành được thắng lợi thì những mâu thuẫn nội bộ phái Giacôbanh cũng nảy sinh và ngày càng trở nên gay gắt. Sự phân hoá nội bộ làm cho phái Giacôbanh suy yếu.
Ngày 27 - 7 - 1794 ), trong phiên họp của Quốc hội, lực lượng tư sản phản cách mạng đã tiến hành đảo chính, bắt Rô-be-spie và các nhân vật chủ chốt của phái Giacôbanh. Chính quyền rơi vào tay thế lực phản động, chấm dứt giai đoạn phát triển đi lên của cách mạng.
4. Thời kì thoái trào
Sau cuộc đảo chính ngày 27 - 7 - 1794, chính quyền thuộc về phái tư sản mới giàu lên trong thời gian chiến tranh nhờ buôn bán gian lận, đầu cơ tích trữ và tham ô công quỹ. Uỷ ban Đốc chính được thành lập, tập trung quyền lực vào 5 uỷ viên. Nhiều thành quả cách mạng bị thủ tiêu : luật giá tối đa bị bãi bỏ, quyền tự do dân chủ bị hạn chế, những người cách mạng bị khủng bố. các câu lạc bộ chính trị bị đóng cửa...
Dưới chế độ Đốc chính, nước Pháp luôn trong tình trạng xáo động và ngày càng khó khăn. Các thế lực phong kiến vẫn âm mưu nổi loạn. Một liên minh mới của các nước châu Âu nhằm chống Pháp được hình thành.
Để cùng cố địa vị thống trị của mình và lập lại trật tự xã hội, giai cấp tư sản đã ủng hộ Na-pô-lê-ông Bô-na-pác - một viên tướng có tài chỉ huy quân sự, làm cuộc đảo chính thành công (11 - 1799), chấm dứt chế độ Đốc chính. Nền độc tài quân sự được thiết lập ở Pháp.
Năm 1804, Na-pô-lê-ông lên ngôi Hoàng đế đã thành lập Đế chế thứ nhất, lấy hiệu là Na-pô-lê-ông I, tiến hành cuộc chinh phạt hầu hết các nước châu Âu. Năm 1812, Na-pô-lê-ông bị thua trận ở Nga. Năm 1815, các nước đồng minh chống Pháp đã đánh thắng Na-pô-lê-ông ở trận Oa-téc-lô. Chế độ quân chủ ở Pháp được phục hồi.