Cuộc khủng hoảng xã hội ở nửa sau thế kỉ XVIII đã khiến nhà nước quân chủ phong kiến thời Nguyễn tăng thêm tính chuyên chế, củng cố quan hệ sản xuất phong kiến. Xã hội chia thành hai giai cấp : giai cấp thống trị bao gồm vua quan và địa chủ, cường hào ; giai cấp bị trị bao gồm các tầng lớp nhân dân lao động mà tuyệt đại đa số là nông dân.
Nhà Nguyễn cố gắng hoàn chỉnh bộ máy thống trị nhằm ổn định tình hình xã hội nhưng không ngăn chặn được sự phát triển của tệ tham quan ô lại.
Nhân dân có câu :
Con ơi, mẹ bảo con này,
Cướp đêm là giặc, cướp ngày là quan.
Không chỉ có nhân dân than thở : “Muốn nói gian làm quan mà nói” hay “quan tha, nha bắt”... mà cả vua Minh Mạng cũng bất bình, đã từng nhận xét: bọn quan lại “xem pháp luật như hư văn, xoay xở nhiều vành, chỉ cốt lấy tiền, không được thì buộc tội”.
(Đại Nam thực lục)
Ở nông thôn, địa chủ cường hào lại tiếp tục hoành hành, ức hiếp nhân dân.
Doanh điền sứ Nguyễn Công Trứ đã tâu với vua : “Cái hại quan lại là một, hai phần, còn cái hại cường hào đến 8, 9 phần”. Nhà nước chia vùng để đánh thuế, mức thuế khá nặng. Tô tức của địa chủ cũng khá cao. Mỗi năm người dân đinh phải chịu 60 ngày lao dịch. Bên cạnh đó, các vua Nguyễn còn tập trung sức dân, của cải xây dựng kinh thành, cung điện ở Phú Xuân, phá dỡ cung điện vua Lê ở Hà Nội chuyển vào, điều động hàng nghìn dân đinh, binh lính Thanh Hoá, Nghệ An, Bắc thành vào làm trong hàng chục năm. Theo sử cũ, trong một lần tuần du ra Bắc, vua Thiệu Trị đã bắt nhân dân xây dựng 44 hành cung ở dọc đường để vua nghỉ.
Không những thế, thiên tai, mất mùa, đói kém lại thường xuyên xảy ra. Có năm bão lụt lớn làm đổ hàng vạn nhà dân, hàng ngàn người chết. Có năm nạn dịch lan tràn làm hàng chục vạn người chết.
Một bài vè đương thời có câu :
Xúc đầy nghĩa địa
Thây thối bên cầu
Advertisements (Quảng cáo)
Trời ảm đạm u sầu
Cảnh hoang tàn đói rét.