Cáo thường hay dùng văn biền ngẫu. Văn biền ngẫu còn gọi là “biền văn”, “biền lệ văn” hoặc “văn tứ lục” (biền là ngựa đi sóng đôi ; ngẫu là đôi, cặp). Văn biền ngẫu có năm đặc điểm :
- Ngôn ngữ đối ngẫu : các vế đối nhau theo bằng trắc, từ loại ;
- Kiểu câu chỉnh tề, câu 4 chữ đối với câu 4 chữ, câu 6 chữ đối với câu 6 chữ hoặc câu 4/4 và câu 6/6 đối nhau ;
- Có vần điệu, bằng trắc hài hoà ;
- Sử dụng điển cố ;
- Sử dụng từ ngữ bóng bẩy có tính phô trương.
Trong bài Bình Ngô đại cáo của Nguyễn Trãi còn có loại câu 5 chữ, 7 chữ, 10 chữ, 14 chữ rất đa dạng.
2. Tác giả
Nguyễn Trãi (1380 – 1442) hiệu là ức Trai, quê gốc làng Chi Ngại (Chí Linh, Hải Dương), sau dời đến Nhị Khê (Thường Tín, Hà Tây). Cha ông là Nguyễn ứng Long, một học trò nghèo, đỗ Thái học sinh đời Trần. Mẹ là Trần Thị Thái – con quan Tư đồ Trần Nguyên Đán. Nguyễn Trãi là vị anh hùng toàn đức, toàn tài nhưng cũng là người chịu nỗi oan thảm khốc hiếm có trong lịch sử. Hết mình phục vụ và giúp đỡ nhà Lê từ khi Lê Lợi khởi nghiệp ở Lam Sơn đến khi triều đình thịnh vượng nhưng ông lại bị chính triều đình ấy tru di cả ba họ.
Năm 1427, giặc Minh sang xâm lược nước ta. Nhiều quan đại thần (trong đó có Nguyễn Phi Khanh) bị chúng bắt đưa sang Trung Quốc. Nguyễn Trãi là con của Nguyễn Phi Khanh, muốn đi theo cha để phụng dưỡng. Nghe lời cha khuyên nhủ, Nguyễn Trãi đã ở lại, gia nhập nghĩa quân Lam Sơn để đền nợ nước, trả thù nhà.
Trong đoàn quân của Lê Lợi, Nguyễn Trãi trở thành một vị quân sư kiệt xuất. Ông còn dùng ngòi bút của mình để lung lạc ý chí chiến đấu của kẻ thù. Những bức thư của ông trong Quân trung từ mệnh tập từng khiến cho Vương Thông cùng đám quân sĩ của hắn mất tinh thần để rồi cuối cùng phải quy hàng, chấm dứt mười năm đô hộ nước ta.
Khi đất nước thái bình thì Nguyễn Trãi lại gặp hoạ. Với bản tính trung thực, thẳng thắn, ông bị bọn quan lại nịnh thần ghen ghét. Nhân cái chết của Lê Thái Tông, chúng đã ghép ông vào tội giết vua khiến ông phải chịu cái chết rất thảm khốc vào năm 1442. Hơn hai mươi năm sau (1464), vua Lê Thánh Tông mới giải oan cho ông.
Những tác phẩm văn chương của Nguyễn Trãi còn lại với chúng ta ngày nay rất phong phú : ức Trai thi tập, Quốc âm thi tập, Quân trung từ mệnh tập,… đặc biệt là Bình Ngô đại cáo – một áng thiên cổ hùng văn, bản Tuyên ngôn độc lập thứ hai của nước ta (sau bài Nam quốc sơn hà).
3. Bố cục
Bài cáo gồm năm đoạn :
- Đoạn 1 (từ Từng nghe đến Chứng cớ còn ghi) : Nêu luận đề chính nghĩa.
- Đoạn 2 (từ Vừa rồi đến …thần nhân chịu được ?) : Tố cáo tội ác của giặc.
- Đoạn 3 (từ Ta đây đến …lấy ít địch nhiều.) : Lãnh tụ và nghĩa quân trong buổi đầu dấy nghiệp.
- Đoạn 4 (từ Trọn hay đến …chưa thấy xưa nay) : Quá trình kháng chiến đi đến thắng lợi.
- Đoạn 5 (phần còn lại) : Tuyên bố hoà bình, khẳng định ý nghĩa của cuộc khởi nghĩa Lam Sơn.
4. Cách đọc
Nhìn chung, giọng đọc toàn bài thể hiện giai điệu mạnh mẽ, hùng hồn của bản “Tuyên ngôn độc lập”, thể hiện tư tưởng nhân nghĩa cao cả, tinh thần yêu nước nồng nàn, lòng căm thù giặc sâu sắc của dân tộc. Đặc biệt chú ý sự đăng đối giữa các câu văn biền ngẫu thể hiện khí thế chiến thắng của quân ta và sự thất bại thảm hại của giặc Minh.
II - Kiến thức cơ bản
Có thể nói : Bình Ngô đại cáo là bản Tuyên ngôn độc lập lần thứ hai của dân tộc ta sau Nam quốc sơn hà. Nhưng nó là bản Tuyên ngôn độc lập hùng tráng nhất thời kì trung đại. Nguyễn Trãi viết Bình ngô đại cáo vào giữa lúc niềm vui của cá nhân hoà chung niềm vui lớn của dân tộc. Vì thế mà tác phẩm oai hùng đậm chất sử ca. Tác phẩm Bình Ngô đại cáo có thể được chia thành 4 mạch :
1. Niềm tự hào tự tôn dân tộc
Nguyễn Trãi mở đầu bài cáo bằng một nguyên lí chính nghĩa được các dân tộc thời kì trung đại mặc nhiên thừa nhận :
Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân
Quân điếu phạt trước lo trừ bạo
Nhân nghĩa là mối quan hệ giữa con người với con người được xây dựng trên cơ sở của tình thương yêu và đạo lí làm người. “Nhân nghĩa” với Nguyễn Trãi là “yêu dân” và “trừ bạo”. Có xuất xứ từ một quan niệm của Nho gia, song đến Việt Nam, Nguyễn Trãi đã biến nó thành một khái niệm đậm tính dân tộc.
Sau khi nêu nguyên lí “nhân nghĩa”, Nguyễn Trãi viết những câu văn thật hào hùng, sang sảng, chất chứa lòng tự hào, tự tôn dân tộc. Đoạn văn nêu ra hàng loạt những chân lí khách quan về sự tồn tại độc lập của một lãnh thổ, một quốc gia. Đó là một đất nước được xây dựng lên từ lịch sử dân tộc có một nền văn hoá lâu đời :
Như nước Đại Việt ta từ trước,
Vốn xưng nền văn hiến đã lâu.
Núi sông bờ cõi đã chia,
Phong tục Bắc Nam cũng khác.
Tất cả đều mặc nhiên “vốn có” : từ núi sông vốn đã phân định rạch ròi đến “phong tục Bắc Nam cũng khác”. Rõ ràng ta có đủ chủ quyền đất nước bởi từ cương vực lãnh thổ, phong tục tập quán đến nền văn hoá, rồi lịch sử, rồi chế độ ta đều độc lập đứng trên một cái thế đối vững vàng cùng với nền văn minh phương Bắc. So với Nam quốc sơn hà thì Bình Ngô đại cáo thực sự là một bước tiến dài của Nguyễn Trãi trong việc hoàn chỉnh khái niệm về quốc gia, về dân tộc. Không có minh chứng nào thuyết phục hơn cho nguyên lí nhân nghĩa bằng chính “chứng cứ còn ghi” trong lịch sử. Sự thất bại của Triệu Tiết, Toa Đô, ô Mã làm tiêu vong những thế lực phi nghĩa. Cũng đồng thời khẳng định chiến thắng luôn đứng về những người đấu tranh cho chính nghĩa. Cách lập luận của Nguyễn Trãi thật hoàn thiện và cũng đầy sắc sảo.
2. Lòng căm thù lũ giặc bất lương, tàn bạo
Cũng như đoạn văn trên, đoạn kể tội quân thù cũng ngắn nhưng sắc sảo. Một bản cáo trạng đanh thép được viết lên từ một lòng căm thù sục sôi.
Đoạn văn mở đầu, tác giả chỉ rõ :
Nhân họ Hồ chính sự phiền hà,
Để trong nước lòng dân oán hận.
Quân cuồng Minh thừa cơ gây hoạ,
Nguyễn Trãi đã vạch trần âm mưu xâm lược của giặc. Lợi dụng việc Hồ Quý Li cướp ngôi nhà Trần, giặc Minh đã “thừa cơ gây hoạ”. Núp dưới bóng cờ “phù Trần diệt Hồ”, giặc đã giả nhân giả nghĩa để thực hiện bài “mượn gió bẻ măng”.
Âm mưu xâm lược của quân giặc gian xảo bao nhiêu thì chính sách cai trị của chúng càng thâm độc bấy nhiêu. Vẫn là những chính sách cũ nhưng thâm độc hơn nhiều : chúng không chỉ bóc lột vơ vét hết mọi sản vật, sức người, sức của của dân ta mà chúng còn huỷ hoại cả môi trường sống (tàn hại giống côn trùng cây cỏ) và tàn sát con người không biết ghê tay. Hai câu :
Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn,
Vùi con đỏ xuống dưới hầm tai vạ.
như được viết ra bằng máu và nước mắt của người anh hùng suốt đời một lòng vì dân vì nước.
Advertisements (Quảng cáo)
Vơ vét sản vật, tiêu diệt con người, tội ác của giặc không giấy bút nào tả xiết :
Độc ác thay, trúc Nam Sơn không ghi hết tội,
Dơ bẩn thay, nước Đông Hải không rửa sạch mùi.
Nguyễn Trãi chọn cái vô cùng (trúc Nam Sơn, nước Đông Hải) để nói đến tội ác của một loài quỷ dữ (thằng há miệng, đứa nhe răng).
Hai câu cuối kết án vô cùng đanh thép :
Lẽ nào trời đất dung tha,
Ai bảo thần nhân chịu được ?
Tội ác của giặc Minh đã vượt qua cái giới hạn của lẽ trời. Hành động nhơ bẩn của chúng khiến cả thần và người đều không thể tha thứ.
Đứng trên lập trường nhân nghĩa, đoạn văn là máu, là nước mắt, thể hiện sự căm hận sục sôi của Nguyễn Trãi đối với kẻ thù.
3. Âm điệu hào hùng của cuộc khởi nghĩa Lam Sơn và tinh thần quyết chiến, quyết thắng của dân tộc trong cuộc kháng chiến chống quân Minh
Tác giả tái hiện hình tượng người anh hùng Lê Lợi và cuộc khởi nghĩa Lam Sơn từ những ngày đầu gian khó :
Ta đây :
Núi Lam Sơn dấy nghĩa,
Chốn hoang dã nương mình
Nhưng cái lớn ở Lê Lợi chính là lòng căm thù giặc sâu sắc. Từ đó mà cái chí của người anh hùng là “tấm lòng cứu nước” như con thuyền lúc nào cũng “đăm đăm muốn tiến về Đông”. Cái chí khí ấy lại được rèn đúc qua những tháng ngày “quên ăn vì giận” để rồi ngay cả trong cơn mộng mị vẫn băn khoăn một nỗi niềm cứu nước. Hình ảnh Lê Lợi vì thế mà đã trở thành biểu tượng tập trung của lòng yêu nước, căm thù giặc “thề không cùng sống”.
Viết về Lê Lợi, Nguyễn Trãi chú trọng gợi lại những ngày tháng mà vị chủ tướng phải “nếm mật nằm gai”, “đau lòng nhức óc, chốc đà mười mấy năm trời”. Trong cảm nhận của người đọc, người chủ tướng Lam Sơn vừa vĩ đại lại vừa rất đời thường, gần gũi, tàng ẩn đằng sau sự miêu tả là một triết lí nhân sinh sâu sắc : mỗi người dân đều có thể hoá những anh hùng.
Đã có người dựng cờ khởi nghĩa nhưng những ngày đầu, nghĩa quân còn phải đối diện với biết bao gian khổ : thiếu nhân tài, thiếu binh lính, thiếu quân lương. Nhưng khi “tấm lòng cứu nước” trở thành lời giục gọi thì đội quân “manh lệ chi đồ” mà “phụ tử chi binh” đã “gắng chí khắc phục gian nan” để đến được những thắng lợi cuối cùng. Có lẽ trong việc dùng binh xưa, Lê Lợi là người nhìn ra sớm nhất và cũng đồng thời đánh giá cao nhất vai trò, sức mạnh của những người dân ở tầng lớp đáy cùng (những người manh lệ).
Đoạn văn như bản trường ca hào hùng về khí thế quyết chiến, quyết thắng của nghĩa quân. Một lần nữa, Nguyễn Trãi nhắc lại để khắc sâu nguyên lí nhân nghĩa :
Đem đại nghĩa để thắng hung tàn,
Lấy chí nhân để thay cường bạo.
Lời văn dịch chưa thật sát ý. Trong nguyên bản, Nguyễn Trãi đề : “Dĩ chí nhân nhi dịch cường bạo”. Dưới ngọn cờ đại nghĩa, đội quân của nhà Lê lấy cái chí nhân để làm cho cường bạo phải đổi thay về bản chất chứ không phải cuộc khởi nghĩa chỉ làm một việc giản đơn (lấy chí nhân mà thay vào cường bạo). Câu văn trong nguyên tác thật sâu xa. Cái ác phải bị đổi thay và cái thiện, cái chính nghĩa phải làm cho cái ác phải đổi thay tận gốc.
Đoạn văn được viết sau nguyên lí nhân nghĩa là một đoạn hả hê, sảng khoái. Tiết tấu, âm điệu câu văn dồn dập, ồn ào như tiếng thác. Sự thay đổi đột ngột đó phù hợp với cái khí thế của quân ta đang lên như gió bão. Đoạn văn gợi hình dung toàn cảnh về những ngày tháng cả dân tộc sống trong không khí của sử thi. Những chiến thắng của nghĩa quân liên tiếp như “sấm vang chớp giật”, như “trúc chẻ tro bay”… Theo đó thì sự thất bại của quân thù là tất yếu : “máu chảy thành sông tanh trôi vạn dặm”, “thây chất đầy nội ; nhơ để ngàn năm”. Hàng loạt những động từ mạnh kết hợp với nhạc điệu dồn dập, nhịp văn gấp gáp, hối hả gợi đầy đủ cái khí thế ào ào như vũ bão. Chính nghĩa lướt qua gian tà để cuốn phăng ra bể tất cả những tàn bạo, nhuốc nhơ.
Những mốc thời gian :
Ngày mười tám…
Ngày hai mươi…
Ngày hăm lăm…
Ngày hăm tám…
những cái “danh” không thể giấu nổi sự hèn nhát và nhục nhã : Trần Trí, Sơn Thọ, Lí An, Phương Chính, Vương Thông, Mã Anh… Tất cả làm nên một khung cảnh chiến trường tuy hỗn độn nhưng thế chủ động hoàn toàn đã thuộc về phe chính nghĩa. Quân giặc nhốn nháo, hãi hùng, mỗi tên mỗi vẻ vô cùng thảm hại. Nhưng nhân dân ta vốn ưa hoà bình, không thích cảnh binh đao :
Họ đã tham sống sợ chết, mà hoà hiếu thực lòng ;
Ta lấy toàn quân là hơn, để nhân dân nghỉ sức.
Quân giặc đã “tham sống sợ chết”, ta cũng chẳng cạn tình. Quan điểm “dĩ chí nhân nhi dịch cường bạo” của Nguyễn Trãi chính được biểu hiện ở đây. Hành động nhân ái của ta càng tô thêm cái chính nghĩa và lòng nhân đạo sáng ngời của dân tộc Việt.
4. Cảm hứng về ngày độc lập và cảm hứng về tương lai của đất nước
Kết thúc bài cáo, Nguyễn Trãi trịnh trọng, vui mừng thay mặt Lê Lợi tuyên bố với nhân dân cả nước thắng lợi vừa qua. Từ đây dân tộc bước vào một thời đại mới. Độc lập, tự do và sự yên bình lại trở về trên mỗi miền quê. Đoạn văn dựa vào những quy luật tất yếu của tự nhiên mà khái quát thành những điều tất yếu trong xã hội. Xã hội phải đối diện với “những sự đổi thay” nhưng cũng như càn khôn “bĩ rồi lại thái”, như nhật nguyệt “hối rồi lại minh”. Và dường như cũng chỉ có như vậy ta mới thấu hết được cái ý nghĩa của hình ảnh đất nước trong gian lao, và mới hiểu thế nào là “muôn thuở nền thái bình vững chắc”. Đất nước đã thanh bình, hình ảnh đất nước trong tương lai vững vàng và tươi sáng : “Bốn phương biển cả thanh bình, ban chiếu duy tân khắp chốn”.
Một áng “thiên cổ hùng văn” kết hợp hài hoà cái tinh tuý cá nhân và thời đại. Bằng một bút lực tuyệt vời, Nguyễn Trãi đã tự bất tử hoá tác phẩm của mình, biến nó thành một tác phẩm “vô tiền khoáng hậu” – mãi mãi là bài ca giáo dục truyền thống yêu nước của dân tộc Việt Nam.
III - Liên hệ
1. Cáo là hình thức văn chính luận, nên phải phản ánh được nội dung chính trị quy định một cách chặt chẽ, nhưng bài đại cáo này lại được Nguyễn Trãi viết theo thể tứ lục biến cách với đặc tính gợi tả qua nhiều hình tượng sinh động, và âm thanh phong phú, khiến cho bài văn có đoạn trầm hùng của khí thế xung trận, lại có đoạn lắng đọng trong niềm xúc cảm của tâm can… Nếu nói rằng tư tưởng chủ đạo của cuộc khởi nghĩa Lam Sơn là tư tưởng “đánh vào lòng người” (tư tưởng “tâm công”), thì nghệ thuật bài đại cáo này cũng đạt đến trình độ “đi vào lòng người”, đi vào tình cảm cao quý nhất của con người đất Việt, tình cảm yêu nhân nghĩa, yêu hoà bình qua sắc thái của ngôn từ. Đúng như Võ Khâm Lân, một nhân sĩ ở thế kỉ XVII, đã nhận xét, bài đại cáo này quả là “một áng thiên cổ hùng văn” (một bài văn có lời sắc bén vốn có xưa nay), nó là sự kết tinh của bút pháp anh hùng ca với bút pháp trữ tình, là sự nhuần nhuyễn giữa yếu tố chính trị với yếu tố nghệ thuật.
Tất nhiên, trong áng hùng văn này, chúng ta cũng phải loại trừ một vài chi tiết mà ngày nay, có thể coi là chưa thích đáng, do hạn chế của thế giới quan tác giả thời bấy giờ, thí dụ, tác giả đã theo Lê Văn Hưu trong Đại Việt sử kí xếp triều đại Triệu Đà vào triều đại khai sáng của dân tộc ta, hay ở phần cuối, khi nêu ra nguyên nhân thắng lợi, tác giả đã cho rằng : “Âu cũng nhờ trời đất tổ tông khôn thiêng ngầm giúp đỡ mới được như vậy !”. Nếu cho rằng đó là một cách phát biểu để đề cao truyền thống yêu nước từ tổ tiên ta chuyển tới thì chắc hẳn cũng được, nhưng nếu nói là có một yếu tố thần kì có tính chất siêu hình quyết định sự thành công trọng đại này, thì hoàn toàn không đúng ; yếu tố thần kì đó thật ra chỉ là sức mạnh tổng hợp vật chất và tinh thần của quân dân thời khởi nghĩa Lam Sơn, là sức mạnh tổng hợp của cuộc chiến tranh nhân dân trong khuôn khổ thời khởi nghĩa Lam Sơn, dưới sự lãnh đạo tài tình của Lê Lợi và bộ tổng tham mưu, trong đó có nhà thao lược xuất sắc Nguyễn Trãi.
Tuy nhiên, một vài tì vết nhỏ bé đó không làm mờ được ánh hào quang toả ra tự áng văn gần như “toàn bích” này…
(Bùi Văn Nguyên, Giảng văn, tập 1, Sđd)
2. Đại cáo bình Ngô từ bao đời được coi như một áng “thiên cổ hùng văn” nói lên khí phách anh hùng và tâm hồn cao đẹp của cả dân tộc Việt Nam.
Đại cáo bình Ngô được thể hiện qua ngọn bút thiên tài của Nguyễn Trãi, trở thành sản phẩm tinh thần đẹp nhất của thời đại ông. Có thể nói Đại cáo bình Ngô là tác phẩm tập thể của toàn thể nhân dân ta dưới sự chỉ đạo tuyệt vời của lãnh tụ Lê Lợi. Nói như thế không có nghĩa là làm giảm giá trị của Nguyễn Trãi trong Đại cáo bình Ngô mà chính là đặt ông vào vị trí cao nhất trong lịch sử văn học Việt Nam.
Nhà thơ chân chính của dân tộc không bao giờ chỉ là một con người ấp ủ và thổ lộ những tâm tư thầm kín của riêng mình. Nhà thơ chân chính phải là người ngày đêm sống với những lo âu, hoài bão và ý chí của dân tộc, để từ đó kết tinh lại trong tâm hồn và tác phẩm của mình những gì đẹp nhất, lớn nhất, sâu nhất của dân tộc. Nguyễn Trãi là nhà thơ như thế và chính ông là người đã nêu cao truyền thống ấy của những nhà thơ chân chính ở Việt Nam.
Đại cáo bình Ngô là một tác phẩm vừa văn học vừa khoa học. Nó phân tích ta là ai, địch là ai, vì sao ta kiên cường chiến đấu, vì sao dân tộc ta luôn luôn chiến thắng và muôn đời bất diệt.
Đại cáo bình Ngô là tấm gương soi của đất nước Việt Nam, của con người Việt Nam. Nó là bản anh hùng ca về ý nghĩ, thái độ và việc làm của toàn thể nhân dân ta suốt đời này qua đời khác. Nó là tiếng vọng của ngàn xưa cho đến mai sau, mãi mãi nói lên rằng chúng ta, những người Việt Nam, chúng ta đã sống như thế, đang sống như thế và sẽ sống như thế.
Đại cáo bình Ngô chính là bản tuyên ngôn về lẽ sống của chúng ta.