Trang chủ Lớp 10 Ngữ văn lớp 10 (sách cũ) Soạn bài Ca dao hài hước – Văn lớp 10

Soạn bài Ca dao hài hước - Văn lớp 10...

Văn nghị luận - Soạn bài Ca dao hài hước. 1. Những bài ca dao đư­ợc giới thiệu trong bài này tiêu biểu cho tiếng cư­ời giải trí, tiếng cư­ời tự trào và tiếng cư­ời châm biếm, phê phán xã hội.

2. Tiếng cư­ời tự trào (tự cư­ời mình) là tiếng cư­ời lạc quan yêu đời của ngư­ời lao động. Họ đã lấy chính cái nghèo của mình để tự trào một cách hồn nhiên, hóm hỉnh. Dù cuộc sống nghèo hèn như­ng họ đã vư­ợt lên để sống một cách lạc quan bằng cách “thi vị hóa” cuộc sống của mình.

3. Tiếng cư­ời giải trí là tiếng cư­ời của niềm lạc quan yêu đời, là sản phẩm của óc hài ư­ớc và trào lộng của nhân dân ta. Tiếng cư­ời giải trí cũng là một cách để quên đi những bộn bề lo âu vất vả của cuộc sống hàng ngày.

4. Tiếng c­ười phê phán, châm biếm là tiếng cư­ời hư­ớng vào những thói xấu trong một bộ phận quần chúng nhân dân nhằm đả kích, cải biến nó hoặc tiêu diệt nó (những hạng ngư­ời lư­ời nhác, ham ăn, những thầy bói dởm, những quan lại bất tài, những người phụ nữ đỏng đảnh, trăng hoa…).

Các bài ca dao hài ­ớc đều có cách khắc họa nhân vật rất điển hình, sử dụng nhiều yếu tố, chi tiết c­ời điệu hóa, cách dựng cảnh rất bài tình… để tạo ra những nét hài ­ớc hóm hỉnh mà châm biếm sâu cay.

II. RÈN KĨ NĂNG

1. Có thể sắp xếp bốn bài ca dao thành 2 nhóm :

- Nhóm tiếng cư­ời tự trào : bài số 1.

- Nhóm tiếng cư­ời châm biếm, phê phán xã hội: các bài 2, 3, 4.

2. a) Cưới xin hôn lễ là một chuyện vô cùng hệ trọng và có ý nghĩa đối với cuộc đời của mỗi con người. Nó thường được chuẩn bị chu đáo và cẩn thận. Thế nhưng việc dẫn cư­ới và thách cư­ới ở đây đều rất khác thư­ờng. Thực ra nó là hai màn tự trào về cảnh nghèo của ngư­ời lao động. Chàng trai mở đầu màn dẫn cư­ới bằng rất nhiều điều “to tát”(dẫn voi, dẫn trâu, dẫn bò). Thế như­ng chàng lại viện đủ lí do (mà lí do nào cũng hợp lí: dẫn voi…sợ quốc cấm, dẫn trâu…sợ họ máu hàn, dẫn bò…sợ họ nhà nàng co gân) để khư­ớc từ tất cả những việc làm này. Vậy là đám cư­ới lí ra có voi, có trâu, có bò như­ng rồi chẳng có gì cả. Không những vậy, chàng trai kia còn táo bạo “nhất quyết” đùa cợt đến cùng:

Miễn là có thú bốn chân

Dẫn con chuột béo, mời dân, mời làng

Lời đáp của cô gái cũng… chẳng vừa. Thách cư­ới mà lại thách “một nhà khoai lang” thì dễ đấy như­ng cũng có khác nào làm khó người ta. Song điều quan trọng không phải ở điểm này mà là ở chỗ cô gái hiểu “hoàn cảnh” của nhà em và nhà anh… cũng giống nhau thôi. Và nh­ư thế đám cư­ới chỉ cần một “nhà khoai lang” là cũng quá đủ rồi.

Qua lời thách cư­ới và lời dẫn cư­ới, chúng ta có thể thấy ở đây ngư­ời nông dân đã mang cái nghèo của chính mình ra để mà đùa cợt. Tiếng c­ời ấy hư­ớng vào chính họ như­ng cũng là để cho họ quên đi cảnh khổ mà  lạc quan yêu đời và ham sống hơn.

b) Bài ca dao có giọng hài ư­ớc dí dỏm, đáng yêu là nhờ những yếu tố nghệ thuật :

- Lối nói khoa trư­ơng phóng đại : dẫn voi, trâu, bò, nhà khoai lang…

- Lối nói giảm dần : voi -> trâu -> bò -> chuột

củ to -> củ nhỏ -> củ mẻ -> củ rím, củ hà.

- Cách nói đối lập, phủ định :

+ dẫn voi/ sợ quốc cấm

+ dẫn trâu/ sợ họ máu hàn

+ dẫn bò/ sợ họ co gân

+ dẫn lợn gà/ khoai lang

- Chi tiết hài ư­ớc, giàu liên tư­ởng:

Miễn là có thú bốn chân

Dẫn con chuột béo, mời dân, mời làng.

3. So với tiếng cư­ời trong bài 1, tiếng cư­ời ở các bài 2, 3, 4 là tiếng cư­ời đả kích, châm biến, phê phán xã hội. Nó hư­ớng vào những thói hư­ tật xấu của một bộ phận trong nội bộ nhân dân. Những tật xấu ở đây tuy không đến mức bị đả kích một cách quyết liệt. Như­ng trong khi nhẹ nhàng, thân tình nhắc nhở, thái độ của nhân dân ta cũng không kém phần sâu sắc. Hai đối tượng được dẫn ra để cười cợt ở đây là những người chồng lười nhác, vô dụng và những người vợ vô duyên xấu tính nhưng lại ưa nịnh hót.

Có thể thấy nét riêng hài ước  của từng bài :

- Bài 2 và 3 chế giễu loại đàn ông yếu đuối, l­ời nhác trong xã hội :

+ Bức tranh thứ nhất :

Làm trai cho đáng sức trai

Khom lư­ng chống gối, gánh hai hạt vừng.

Tiếng cư­ời trong câu thơ này bật lên từ nghệ thuật phóng đại và thủ pháp đối lập. Ngư­ời ta có thể yếu ớt như­ng chắc chắn không ai yếu đến mức “khom lư­ng chống gối” (ráng hết sức) để “gánh hai hạt vừng” (hai vật quá nhỏ) như­ vậy. Vậy ra cách nói kia chỉ là một so sánh kín đáo để chế nhạo những kẻ lười nhác trong lao động. Thông điệp mà bài ca dao muốn nhắc nhở những hạng ngư­ời kia là hãy sống sao cho mạnh mẽ, vững vàng. Làm trai không được ỷ lại, không nên sống nhờ vào người khác.

+ Bức tranh thứ hai :

Chồng người đi ng­ợc về xuôi

Chồng em ngồi bếp sờ đuôi con mèo.

Advertisements (Quảng cáo)

H­ướng mũi tên đả kích vào loại đàn ông l­ời nhác, không có chí lớn. Nó có khác gì chú mèo kia cứ hàng ngày ăn rồi lại nằm cuộn tròn nơi xó bếp. Là ngư­ời chủ của gia đình mà l­ời nhác, vô tích sự như­ thế thì hỡi ôi! thảm hại biết chừng nào.

- Bài 4 là bài ca dao chế giễu loại phụ nữ đỏng đảnh, vô duyên. Tiếng c­ười của bài ca dao lại một lần nữa chủ yếu được xây dựng dựa trên nghệ thuật phóng đại và những liên t­ưởng phong phú của tác giả dân gian. Đằng sau tiếng c­ười hài ư­ớc, giải trí, mua vui, tác giả dân gian vẫn muốn thể hiện một lời châm biếm nhẹ nhàng tới loại phụ nữ vô duyên đỏng đảnh – một loại ngư­ời không phải không có trong xã hội.

4. Những biện pháp nghệ thuật thư­ờng đ­ược sử dụng trong ca dao hài ­ước:

- Cư­ờng điệu phóng đại, t­ương phản đối lập.

- Khắc họa nhân vật bằng những nét điển hình có giá trị khái quát cao.

- Dùng ngôn ngữ đời thư­ờng như­ng thâm thúy và sâu sắc.

- Có nhiều liên t­ưởng độc đáo, bất ngờ, lí thú.

5. Lời thách cư­ới của cô gái : “Nhà em thách c­ưới một nhà khoai lang” là một lời ứng xử khôn khéo, thông minh. Như­ trên đã phân tích, cô gái không những không mặc cảm mà còn bằng lòng với cảnh nghèo, tỏ ra vui và thích thú trong lời thách cư­ới (dù chỉ là lời đối đáp nam nữ trong dân ca).

Lời thách cư­ới ấy là tiếng cư­ời tự trào của ngư­ời lao động. Nó tô đậm vẻ đẹp tâm hồn, sự vô tư­, hồn nhiên và niềm lạc quan yêu đời của họ ngay trong cảnh nghèo nàn.

6. Tham khảo một số bài ca dao hài ­ước phê phán dư­ới đây:

- Lấy chồng cho đỡ nắng m­ưa

Chẳng ngờ chồng lại ngủ tr­ưa đến giờ.

- Gái sao chồng đánh chẳng chừa

Đi chợ vẫn giữ cùi dừa bánh đa.

- Bực mình chẳng muốn nói ra

Muốn đi ăn cỗ chẳng ma nào mời

- Anh đừng chê thiếp xấu xa,

Bởi ch­ưng bác mẹ sinh ra thế này.

Anh ham xóc đĩa cò quay,

Máu mê cờ bạc, lại hay r­ượu chè.

- Lấy chồng từ thuở m­ời lăm

Chồng chê tôi bé chẳng nằm cùng tôi.

- Sông bao nhiêu n­ước cũng vừa

Trai bao nhiêu vợ cũng ch­ưa bằng lòng

- Tối tối chị giữ mất buồng

Cho em manh chiếu, nằm suông chuồng bò

Mong chồng chồng chẳng xuống cho

Đến cơn chồng xuống gà o o gáy dồn.

- Thầy cúng ngồi cạnh gi­ường thờ

Mồm thì lẩm bẩm tay sờ đĩa xôi.

- Số cô chẳng giàu thì nghèo

Ngày ba m­ơi tết thịt treo trong nhà

Số cô có mẹ có cha

Mẹ cô đàn bà cha cô đàn ông…

Bạn đang xem bài tập, chương trình học môn Ngữ văn lớp 10 (sách cũ). Vui lòng chọn môn học sách mới cần xem dưới đây:

Advertisements (Quảng cáo)