Trang chủ Lớp 10 Ngữ văn lớp 10 Soạn bài: Tựa “Trích diễm thi tập” trang 28 SGK Văn 10...

Soạn bài: Tựa “Trích diễm thi tập” trang 28 SGK Văn 10 – Văn lớp 10...

Tựa “Trích diễm thi tập” – Soạn bài: Tựa “Trích diễm thi tập” trang 28 SGK Ngữ văn 10. Theo Hoàng Đức Lương, có những nguyên nhân nào khiến sáng tác thơ văn của người xưa không lưu truyền đầy đủ cho đời sau? Cho biết nghệ thuật lập luận của tác giả.

Advertisements (Quảng cáo)

KIẾN THỨC CƠ BẢN

1. Tác giả

– Hoàng Đức Lương quê Văn Giang, Hưng Yên, trú tại Gia Lâm – Hà Nội, đỗ Tiến sĩ năm 1478.

2. Tác phẩm

– Thể loại: Tựa là bài viết thường đặt ở đầu sách tương tự như các lời nói đầu, lời giới thiệu, lời tự bạch… (trước thời Đường thường để ở cuối sách). Mục đích là để giới thiệu với độc giả mục đích, động cơ sáng tác, kết cấu, bố cục nội dung hoặc tâm tư, tâm sự của tác giả.

– Bài tựa sách “Trích diễm thi tập” của Hoàng Đức Lương ra đời sau cuộc kháng chiến chống giặc Minh. Kẻ thù muốn huỷ diệt nền văn hoá của dân tộc ta, đồng hoá nhân dân ta. Trong bối cảnh ấy, công việc sưu tầm thơ văn của Hoàng Đức Lương có một ý nghĩa rất lớn. Tựa “Trích diễm thi tập” là một bài tựa hay bởi sự kết hợp giữa việc trình bày, sự biểu cảm và lập luận chặt chẽ. Tác giả đã nhấn mạnh bốn nguyên nhân chủ quan (ít người am hiểu; danh sĩ bận rộn; thiếu người tâm huyết; chưa có lệnh vua…) và nguyên nhân khách quan (thời gian và bình hocì). Từ đó, tác giả nêu động cơ và quá trình hoàn thành bộ sách. Mặc dù là một công việc đòi hỏi nhiều tâm huyết nhưng tác giả tỏ ra rất khiêm tốn.

Qua bài tựa, ta thấy được phần nào không khí thời đại, hiểu được tâm tư, tình cảm của tác giả đặc biệt tấm lòng trán trọng, tự hào ý thức trách

nhiệm của tác giả vể việc bảo tồn di sản văn hoá do ông cha đê lại. Nghệ thuật lập luận chặt chẽ kết hợp với tính biểu cảm.

HƯỚNG DẪN TRẢ LỜI CÂU HỎI

Câu 1: Theo Hoàng Đức Lương, có những nguyên nhân nào khiến sáng tác thơ văn của người xưa không lưu truyền đầy đủ cho đời sau? Cho biết nghệ thuật lập luận của tác giả.

a. Bốn lí do khiến thơ văn không lưu truyền hết ở đời sau

– Lí do thứ nhất: Chỉ có thi nhân mới thấy được cái hay, cái đẹp của thi ca. Có thể đặt tên cho lí do này là “ít người am hiểu”.

– Lí do thứ hai: Người có học thì bận rộn chốn quan trường hoặc lận đận trong khoa cử, ít để ý đến thơ ca. Có thể đặt tên cho lí do này là “Danh sĩ bận rộn”.

– Lí do thứ ba: Có người quan tâm đến thơ ca nhưng không đủ năng lực và kiên trì. Có thể đặt tên cho lí do này là ‘Thiếu người tâm huyết”.

– Lí do thứ tư: Triều đình chưa quan tâm. Có thể đặt tên cho lí do này là “Chưa có lệnh vua”…

Ngoài bốn lí do thuộc về chủ quan, tác giả còn nêu lí do thuộc về khách quan. Đoạn tiếp theo từ “Vì bốn lí do kể trên…” đến “… mà không rách nát tan tành” là lí do thứ năm: thời gian và binh hoả có sức huỷ hoại ghê sớm. Đoạn văn kết lại bằng một câu hỏi tu từ có ý nghĩa phủ định: “… thì còn giữ mãi thế nào được mà không rách nát tan tành?”. Câu hỏi biểu hiện nỗi xót xa của tác giả trước thực trạng đau lòng. Đó là nguyên nhàn thôi thúc tác giả làm sách ‘Trích diễm thi tập”.

b. Nghệ thuật lập luận

– Nghệ thuật liên tưởng, so sánh thơ văn như khoái trá, gấm vóc, sắc đẹp ngoài sắc đẹp…

– Phương pháp lập luận quy nạp.

– Dùng câu hỏi tu từ: làm sao giữ mãi… được mà không…

Bài tựa vào lập luận chặt chẽ, chất trữ tình hoà quyện vào chất nghị luận. Tác giả trình bày luận điểm một cách rõ ràng, mạch lạc và khúc chiết. Lòng yêu nước được thể hiện ở thái độ tân trọng di sản vãn hoá của cha ông, niềm đau xót trước thực trạng. Qua lời tựa, người đọc còn thấy được cả không khí thời đại cùng tâm trạng của tác giả.

Câu 2. Hoàng Đức Lưong đã làm gì để sưu tầm thơ văn của tiên nhân?

Đoạn văn trực tiếp bày tỏ tâm trạng, tâm sự của tác giả trước thực trạng đau lòng. Khó khăn trong việc khảo cứu thơ văn Lí – Trần làm tác giả thường có ý thở than, trách lỗi các trí thức đương thời. Ông có ý thức trân trọng văn thơ của ông cha, yêu quý di sản văn học dân tộc.

Tác giả trình bày những động cơ khiến mình phải sưu tầm, tuyển chọn thơ ca dân tộc để soạn ‘Trích diễm thi tập”. Đó là:

– Thực trạng tình hình sách vở về thơ ca Việt Nam rất hiếm “Không khảo cứu vào đâu được”. Người học làm thơ phư Hoàng Đức Lương “chỉ trông vào thơ bách gia đời nhà Đường”.

– Nhu cầu bức thiết phải biên soạn sách ‘Trích diễm thi tập” bởi vì “một nước văn hiến, xây dựng đã mấy trâm năm, chẳng lẽ không có quyển sách nào có thể làm căn bản”.

Đó là những động cơ thôi thúc tác giả soạn sách “Trích diễm thi tập”. Việc làm thì hết sức lớn lao, công phu và ý nghĩa, không phải ai muốn cũng làm được. Song, tác giả thể hiện thái độ hết sức khiêm tốn. Đây là thái độ thường thấy của người phương Đông thòi trung đại Hoàng Đức Lương coi mình là “tài hèn sức mọn”, khi nói về việc đưa thơ của mình vào cuối các quyển, tác giả nói “mạn phép phụ thêm những bài vụng về do tôi viết”.

Để hoàn thành “Trích diễm thi tập” Hoàng Đức Lương đã phải: “Tìm quanh hỏi khắp” để sưu tầm thơ ca của nhữnơ người đi trước. Rồi tác giả “thu lượm thêm thơ của các vị hiện đang làm quan trong triều”. Sau đó đặt tên sách là Trích diễm, gồm 6 quyển. Đây là công việc đòi hỏi tốn nhiều thời gian, công sức, người không tâm huyết sẽ không làm được.

– Công việc của ông có ý nghĩa giáo dục và ý thực tiễn. Bởi vì nếu không có ồng thì chúng ta ngày nay đâu còn biết đến “Chiếu dời đô – Lý Công Uẩn”, “Bạch Đằng giang phú – Trương Hán Siêu”…

Câu 3: Điêu gì thôi thúc Hoàng Đức Lương vượt khó khăn để biên soạn tuyển tập thơ này? Anh (chị) có cảm nghĩ gì vế công việc sưu tầm, biên soạn thơ văn do ông tiến hành?

Để trả lời câu hỏi này cần có cái nhìn tổng hợp toàn bàicần nhấn mạnh đến những ý sau:

– Niềm tự hào về văn hiến dân tộc.

– Ý thức trách nhiệm trước di sản văn học của cha ông bị thất lạc.

– Tinh thần độc lập, tự chủ, ý chí tự cường trong văn học.

Câu 4: Anh (chị) cho biết một ý kiến xuất hiện trước “Trích diễm thi tập” nói về văn hiến dân tộc.

(Học sinh tự tìm hiểu để trả lời)

LUYỆN TẬP

Tìm các dẫn chứng chứng tỏ các nhà văn, nhà thơ thời xưa rất tự hào về nền văn hiến dân tộc.

Ngoài bài tựa của tâm lí, bài Đại cáo Bình Ngô của Nguyễn Trãi còn nhiều tác phẩm của các tác giả khác như Nam quốc sơn hà của Lý Thường Kiệt (mặc dù chỉ là gián tiếp), Đại Việt sử kí của Lê Văn Hưu, Đại Việt sử kí toàn thư của Ngô Sĩ Liên, Hiền tài là nguyên khí quốc gia (Bài kí để danh bia tiến sĩ khoa Nhâm Tuất, niên hiệu Đại Bảo thứ ba) của Thân Nhân Trung là những dẫn chứng chứng tỏ các nhà văn, nhà thơ thời xưa rất tự hào về nền văn hiến dân tộc.