Trang chủ Lớp 11 Ngữ văn lớp 11 (sách cũ) Nêu cảm nhận về bài thơ Tràng giang của Huy Cận, Cổ...

Nêu cảm nhận về bài thơ Tràng giang của Huy Cận, Cổ kính, trang nghiêm, Tràng giang còn là một bài thơ rất Việt Nam. Dòng sông sóng gợn, con thuyền xuôi mái chèo, cành củi khô bồng...

Tràng Giang - Huy Cận - Nêu cảm nhận về bài thơ Tràng giang của Huy Cận. Cổ kính, trang nghiêm, Tràng giang còn là một bài thơ rất Việt Nam. Dòng sông sóng gợn, con thuyền xuôi mái chèo, cành củi khô bồng bềnh, cánh bèo lênh đênh, chợ chiều của làng quê, cánh chim trong buổi chiều tà... thật gần gũi với người Việt Nam chúng ta.

Mới đọc, có khi nhầm Tràng giang là một bài thơ thuần túy tả cảnh thiên nhiên. Nhưng nghiền ngẫm cho kỹ mới thấy điều tác giả muốn nói đến trong bài thơ này tuyệt nhiên không phải là cái hữu hình, nhất thời; mà là cái vô hình, cái vĩnh viễn. Đúng như Hoài Thanh đã khẳng định: “Huy Cận có lẽ đã sống một cuộc đời rất bình thường, nhưng Người luôn luôn lắng nghe mình sống để ghi lấy cái nhịp nhàng lặng lẽ của thế giới bên trong”. Cái thế giới bên trong, cái linh hồn của tạo vật trong bài Tràng giang, là nỗi buồn xa vắng mênh mông.

Dòng sông và con người; không gian bao la và tâm trạng cụ thể; đó là một tứ thơ cổ điển:

Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp,

Con thuyền xuôi mái nước song song.

Bài thơ có tựa đề Tràng giang, câu thơ đầu tiên lại nhắc lại tựa đề. Tràng giang chứ không phải Trường giang, mặc dù trường và tràng đều có nghĩa như nhau.

Tràng giang góp phần tạo nên dư âm vang xa, trầm lắng của câu thơ mở đầu, tạo nên âm hưởng chung cho toàn bộ giọng điệu của cả bài thơ. Mặt khác, Tràng giang còn gợi nên được hình ảnh một con sông dài và rộng, vừa là tràng giang, vừa là đại giang. Phải chăng, đấy là sông Hồng, hoặc sông Cửu Long, bền bỉ muôn đời, đã từng chứng kiến bao thăng trầm của lịch sử? Và suy cho cùng, sức mạnh của hai câu thơ trên không phải là nghệ thuật miêu tả, mà ở nghệ thuật khêu gợi, khêu gợi được cả cảm xúc và ấn tượng về một nỗi buồn triền miên kéo dài theo không gian (tràng giang), và theo thời gian (điệp điệp).Ở khổ thơ đầu, cũng như toàn bộ bài Tràng giang, nghệ thuật đối của thơ Đường đã được vận dụng hết sức linh hoạt, chủ yếu đối về ý, chứ không bị câu thúc về niệm luật như cách đối trong thơ cổ. Chẳng hạn, Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp, có thể coi là đối với Con thuyền xuôi mái nước song song; Nắng xuống, trời lên sâu chót vót, đối với: Sông dài, trời rộng, bến cô liêu. Hoặc ở một cấp độ khác: Bèo dạt về đâu, hàng nối hàng - Mênh mông không một chuyến đò ngang lại cũng có thể đối với Không cầu gợi chút niềm thân mật - Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng...Nghệ thuật đối ý (và đối xứng) nói trên, một mặt, làm cho giọng điệu của bài thơ uyển chuyển, linh hoạt (tránh được sự khuôn sáo, cứng nhắc dễ thấy đối với một số bài thơ Đường luật hồi đầu thế kỉ); mặt khác, vẫn phát huy được một trong những thế mạnh của loại thơ này, tạo nên không khí trang trọng cổ điển. Bên cạnh đó, nghệ thuật dùng từ láy như điệp điệp, song song cũng có hiệu quả nhất định gợi âm hưởng cổ kính. Nhưng Tràng giang vẫn là một bài thơ hiện đại. Trước hết, hiện đại ở hình ảnh, ở thi liệu, ở cảm xúc:

    Thuyền về nước lại, sầu trăm ngả;

Củi một cành khô lạc mấy dòng.

Vào những năm 30 của thế kỉ XX, đây là những câu thơ mới mẻ; bởi trong đó xuất hiện cái tầm thường nhỏ nhoi, vô nghĩa như củi một cành khô... Thơ xưa chủ yếu là “địa hạt” dành riêng cho những tao nhân mặc khách; hầu như thiếu vắng cái hiện thực thô ráp của đời thường. Đến thời Thơ mới, nó mới xuất hiện, góp phần tạo nên cuộc cách mạng trong thơ (Hoài Thanh). Hình ảnh một cành củi khô đơn lẻ trôi bồng bềnh, trên dòng sông mênh mông sóng nước gợi lên nỗi buồn về kiếp người nhỏ bé, vô định.

Đến khổ thơ thứ hai, nỗi buồn càng như thấm sâu vào cảnh vật:

Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu

        Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều.

          Nắng xuống, trời lên sâu chót vót;

      Sông dài, trời rộng, bến cô liêu.

Theo Huy Cận, từ đìu hiu ông học được trong bản dịch Chinh phụ ngâm: Non Kì quạnh quẽ trăng treo - Bến Phi gió thổi đìu hiu mấy gò. Cặp từ láy lơ thơ và đìu hiu gợi lên sự buồn bã, quạnh vắng, cô đơn... Chợ chiều thường buồn tẻ, không có được cái nhộn nhịp, hào hứng của chợ sáng, chợ trưa. Đoàn Văn Cừ đã đặc tả thành công nét buồn này bằng những câu kết của bài thơ Chợ Tết nổi tiếng:

Ánh dương vàng trên cỏ kéo lê thê

Lá đa rụng tơi bời quanh quán chợ.

Trong Tràng giang, tiếng chợ chiều đã vãn từ một làng xa nào vẳng lại đã gợi một không khí buồn vắng, cô tịch:

Advertisements (Quảng cáo)

    Nắng xuống, trời lên sâu chót vót;

Sông dài, trời rộng, bến cô liêu.

Đây là mấy câu thơ có giá trị tạo hình. Không gian được mở rộng, và đẩy cao thêm. Sâu gợi lên ở người đọc ấn tượng thăm thẳm, hun hút khôn cùng. Chót vót gợi tả chiều cao vô tận. Càng rộng, càng cao, thì cảnh vật càng thêm vắng lặng, chỉ có sông dài, với bến bờ lẻ loi xa vắng (cô liêu). Nỗi buồn tựa hồ thấm vào không gian ba chiều. Con người trở nên bé bỏng, có phần rợn ngợp trước vũ trụ vĩnh hằng, rộng lớn, không khỏi thấy lạc loài giữa cái mênh mông của đất trời, cái xa vắng của thời gian. (Hoài Thanh). Ấn tượng nói trên lại được tô đậm thêm ở khổ thơ tiếp theo:

  Bèo dạt về đâu, hàng nối hàng;

              Mênh mông không một chuyến đò ngang.

      Không cầu gợi chút niềm thăn mật,

Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng.

vẫn trong mạch cảm xúc ở hai khổ đầu, nỗi buồn càng được khắc sâu qua hình ảnh những cánh bèo dạt lênh đênh. Bên cạnh những hình ảnh thuyền và nước cùng trôi về cõi vô biên, hình ảnh cành củi khô bập bềnh trên sông nước ở khổ một, đến khổ thơ này, ấn tượng về sự chia li tán, tan tác được lấy lại một lần nữa, càng gợi thêm một nỗi buồn mênh mông. Toàn cảnh sông dài, trời rộng tuyệt nhiên không có bóng con người: Không một chuyến đò, đồng thời cũng không có lấy một cây cầu - những hình ảnh có thể tạo nên sự gần gũi giữa con người với con người, mà chỉ có thiên nhiên (bờ xanh) nốì tiếp với thiên nhiên (bãi vàng) xa vắng, hoang sơ.

Như vậy, sự cô quạnh đã được thi sĩ đặc tả độc đáo bằng chính cái không tồn tại. Thực ra, điều này còn có thể nhận thấy ở khổ bốn (Không khói hoàng hôn...) nhưng rõ nhất vẫn là ở khổ ba. Bởi vậy, có thể nói, thái độ phủ định thực tại của tác giả nằm ngay ở trong kết cấu của bài thơ.

Khổ kết bài thơ mượn một số cách diễn đạt của thơ Đường, mà vẫn giữ được nét riêng biệt của Thơ mới, và vẫn thể hiện nét độc đáo của hồn thơ Huy Cận:

Lớp lớp mây cao đùn núi bạc,

            Chim nghiêng cánh nhỏ, bóng chiều xa.

   Lòng quê dợn dợn vời con nước.

         Không khói hoàng hồn cũng nhớ nhà.

Thiên nhiên buồn, nhưng cũng thật tráng lệ. Mùa thu, những đám mây trắng đùn lên trùng điệp ở phía chân trời. Ánh dương phản chiếu trông lấp lánh như những núi bạc. Hình ảnh mây cao đùn núi bạc tạo ấn tượng về sự hùng vĩ của thiên nhiên. Trước cảnh sông nước, mây trời bao la và hùng vĩ ấy, bỗng hiện lên một cánh chim nhỏ bé, nó chỉ cần nghiêng cánh là cả bóng chiều sa xuống. Hình ảnh cánh chim đơn lẻ, trong một buổi chiều tà cũng dễ gợi lên một nỗi buồn xa vắng. (Chim hôm thoi thót về rừng / Đóa trà mi đã ngậm trăng nửa vành - Truyện Kiều - Nguyễn Du). Nhưng điều đáng nói hơn ở đây chính là hiệu quả của nghệ thuật đối lập; đối lập giữa cánh chim bé nhỏ với vũ trụ bao la, hùng vĩ. Phải chăng, điều này đã làm cho cảnh thiên nhiên rộng hơn, thoáng hơn, hùng vĩ hơn và đặc biệt cũng buồn hơn?

Như vậy, đi suốt bài thơ là nỗi buồn triền miên, vô tận. Nỗi buồn ở bài thơ này cũng như phần nhiều nỗi buồn của các nhà Thơ mới, trước hết, chính là nỗi buồn của cả thế hệ, của cả dân tộc, trong những năm ngột, ngạt, dưới thời thuộc Pháp. Vả chăng, có lẽ nỗi buồn nói trên còn xuất phát từ chính quan niệm mĩ học của các nhà thơ lãng mạn đương thời. Theo họ, cái đẹp thường đi sóng đôi với cái buồn. Bô-đơ-le, người được Rem-bô mệnh danh là hoàng đế của các nhà thơ, đã từng có câu thơ nổi tiếng: Em cứ đẹp, và em mãi buồn. Vả chăng, cái buồn của Huy Cận ở bài thơ này, trước sau, vẫn là cái buồn trong sáng, góp phần làm phong phú thêm tâm hồn của bạn đọc; nó cũng như cái buồn đã làm nên sức hấp dẫn mê hồn của thơ ca dân gian Nga, như Biê-lin-xki đã nhận xét.

Bài thơ có ý vị cổ điển, tạo nên được những âm hưởng kì lạ do tác giả đã chọn được thể thơ thích hợp (gần với thể cổ phong), vận dụng tự nhiên lối đối, sử dụng có hiệu quả, với tần số cao, hệ thống từ láy (10 lần trong 16 dòng thơ), và cách ngắt nhịp truyền thống... Chất cổ điển đặc biệt rõ ở câu kết. Thôi Hiệu nhìn khói nhớ đến quê hương (Nhật mộ hương quan hà xứ thị / Yên ba giang thượng sử nhãn sầu - Hoàng Hạc Lâu.) Tản Đà dịch: Quê hương khuất bóng hoàng hôn / Trên sông khói sóng cho buồn lòng ai? Huy Cận không cần có khói sóng - không cần có cái gợi nhớ - mà lòng vẫn dợn dợn nhớ nhà. Rõ ràng, nỗi nhớ của Huy Cận da diết hơn, thường trực hơn và cháy bỏng hơn; do đó, hiện đại hơn!

Cổ kính, trang nghiêm, Tràng giang còn là một bài thơ rất Việt Nam. Dòng sông sóng gợn, con thuyền xuôi mái chèo, cành củi khô bồng bềnh, cánh bèo lênh đênh, chợ chiều của làng quê, cánh chim trong buổi chiều tà... thật gần gũi với người Việt Nam chúng ta.

Bạn đang xem bài tập, chương trình học môn Ngữ văn lớp 11 (sách cũ). Vui lòng chọn môn học sách mới cần xem dưới đây:

Advertisements (Quảng cáo)