Trang chủ Lớp 11 Ngữ văn lớp 11 Phân tích cảnh Huấn Cao cho chữ quản ngục trong tác phẩm...

Phân tích cảnh Huấn Cao cho chữ quản ngục trong tác phẩm Chữ người tử tù của Nguyễn Tuân. Nêu rõ ý nghĩa nhân văn và giá trị nghệ thuật...

Chữ người tử tù – Nguyễn Tuân – Phân tích cảnh Huấn Cao cho chữ quản ngục trong tác phẩm Chữ người tử tù của Nguyễn Tuân. Nêu rõ ý nghĩa nhân văn và giá trị nghệ thuật của đoạn trích. Khi Huấn Cao phát hiện ra “một tấm lòng trong thiên hạ” có “thiên lương” trong trẻo nơi ngục quan thì quan hệ hoàn toàn thay đổi. Sự khinh bỉ đã nhường chỗ cho sự trân trọng.

Advertisements (Quảng cáo)

Một trong những đặc điểm nổi bật của bút pháp lãng mạn là tô đậm những cái kì vĩ, phi thường bằng cách tạo ra những tương phản, đối lập. Cảnh Huấn Cao cho chữ quản ngục trong tác phẩm Chữ người tử tù của Nguyễn Tuân chính là một cảnh tiêu biểu của nghệ thuật lãng mạn. Đây là sự chiến thắng của ánh sáng đối với bóng tối, của cái đẹp, cái cao thượng đối với sự phàm tục, sự nhơ bẩn, của tinh thần bất khuất trước thái độ cam chịu, nô lệ. Chính vì thế mà bản thân tác giả cũng đã xác nhận đó là: “Cảnh tượng xưa nay chưa từng có”.

Muốn hiểu được giá trị của đoạn văn tả cảnh cho chữ trước hết phải thấy được bố cục của câu chuyện. Truyện tự nó đã chia làm hai phần: phần đầu chủ yếu giới thiệu về các nhân vật tham gia vào câu chuyện – có thể xem là phần dẫn truyện. Trên cơ sở giới thiệu lai lịch, tính cách nhân vật, tác giả dẫn dắt người đọc vào phần chính của truyện: cảnh cho chữ. Đây là cảnh quy tụ các nhân vật và chủ đề tác phẩm đồng thời là kết tinh toàn bộ bút lực và tư tưởng Nguyễn Tuân.

Tác phẩm có ba nhân vật, chia làm hai tuyến. Hai tuyến có mối tương quan hết sức oái ăm. Tính chất xung đột, tương phản khiến cho cuộc gặp gỡ của họ mang đầy kịch tính, hết sức éo le.

Trước hết, xét trên bình diện xã hội, họ là hai kẻ đối địch, một người được coi là kẻ phản loạn cầm đầu một cuộc khởi nghĩa chống lại triều đình, một người là quan chức thuộc bộ máy cai trị của chính cái triều đình ấy. Nhưng xét trên bình diện nghệ thuật thì họ là những kẻ tri âm, ở một khía cạnh khác, đây còn là sự đối mặt của hai loại tù, hai kiểu tù nhân: một người tự do về nhân thân nhưng bị cầm tù về nhân cách. Người kia tự do về nhân cách nhưng lại cầm tù về nhân thân. Ta có thể coi đây là cuộc gặp gỡ giữa một kẻ tử tù (Huấn Cao) và một người tù chung thân (quản ngục). Cuộc gặp gỡ diễn ra trong một hoàn cảnh oái ăm: nhà tù. Chọn tình huống gặp gờ này, Nguyễn Tuân đặt quản ngục trước sự lựa chọn: hoặc làm tròn bổn phận một cai tù hoặc trọn đạo tri kỉ. Làm tròn bổn phận quản ngục đồng nghĩa với việc giẫm đạp lên tấc lòng tri kỉ. Làm tròn đạo tri kỉ thì tất phải từ bỏ bổn phận nhà nước của một viên quan. Ngục quan lựa chọn theo hướng nào thì ý nghĩa tư tưởng, câu chuyện sẽ nghiêng theo hướng ấy. Theo hướng thứ nhất, chiến thắng sẽ thuộc về cái tầm thường, còn theo hướng thứ hai, cái dẹp, cái thiên lương sẽ chiến thắng. Cho nên, xét về một mặt nào đó thì Chữ người tử tù có thể xem là câu chuyện về số phận của cái đẹp mà cảnh cho chữ chính là cảnh quyết định cho số phận đó.

Huấn Cao cho chữ là để đáp lại một tấm lòng. Chữ của Huân Cao là tinh huyết và tâm huyết của Huấn Cao. Huấn Cao cho chữ quan ngục là đem lòng mình đáp lại kẻ tri âm. Đó là tư tưởng nghệ thuật của Nguyễn Tuân.

Cứ theo cách Nguyền Tuân miêu tả nhân vật ở phần đầu và cách đặt nhân vật trong tình huống thường thấy ở chú nghĩa lãng mạn để tô đậm các nhân vật và tư tưởng nghệ thuật thì cảnh cho chữ không thể diễn ra đơn giản. Đó cũng là điều mà cả đời viết văn của mình. Nguyễn Tuân không bao giờ chấp nhận.

http:///chu-nguoi-tu-tu-nguyen-tuan-e135.html

Advertisements (Quảng cáo)

Nguyễn Tuân viết về Huấn Cao với những nét bút lãng mạn, tô đậm tài hoa, khí phách và thiên lương. Đặc biệt Nguyễn Tuân nhấn mạnh tính khẳng khái và khí khái của Huấn Cao. Viết đẹp nhưng sinh thời Huấn Cao chỉ mới viết cho ba người bạn thân. Muốn có được chữ Huấn Cao không thể lấy vàng bạc ra mua, không thể lấy vàng bạc ra mua, không thể dùng quyền uy mà ép. Muốn có được chữ Huấn Cao trước hết phải được ông kết nạp vào số những tri kỉ hiếm hoi của mình. Ngục quan bị Huấn Cao coi là kẻ tiểu nhân, lại làm nghề thất đức. Huấn Cao không che giấu thái độ “khinh bạc đến điều” đối với ngục quản. Cơ hội tiếp cận, trò chuyện đã khó nói gì đến tri kỉ. Giữa họ là cả một vực sâu ngăn cách.

Quan hệ giữa quản ngục và Huấn Cao cải thiện được hay không, lúc này hoàn toàn phụ thuộc vào thái độ của Huấn Cao. Khi Huấn Cao phát hiện ra “một tấm lòng trong thiên hạ” có “thiên lương” trong trẻo nơi ngục quan thì quan hệ hoàn toàn thay đổi. Sự khinh bỉ đã nhường chỗ cho sự trân trọng. Chính tấm lòng ngục quan đã làm cảm động tấm lòng Huấn Cao. Thì ra từ trong sâu thẳm ngăn cách. Cái tâm đã làm cảm động cái tài và khi cái tài vài cái tâm có sự chuyển hóa thi cái đẹp ra đời.

Nguyễn Tuân là nhà văn thiên về chủ nghĩa “duy mỹ”. Nhưng trước sau Nguyễn Tuân vẫn tin ở “thiên lương” con người. Ông không chỉ hướng tới cái “mĩ” mà còn hướng tới cái “chân”, cái “thiện”. Sự ra đời của cái đẹp chính là sự hòa hợp tuyệt diệu giữa tài hoa và tâm thiện đạt đến độ chân như. Đó là tư tưởng Nguyễn Tuân.

Nguyễn Tuân ngưỡng mộ vẻ đẹp của khí phách, vẻ đẹp của tài hoa, vẻ đep của thiên lương. Ông đã dồn bút lực dựng lên sức sống của những vẻ đẹp ấy nên dù Huấn Cao có ra đi mãi mãi thì tất cả vẫn vẹn nguyên, vẫn sống mãi.