Trong số những vở tuồng của Đào Tấn sáng tác hoặc nhuận sắc, vở tuồng “ Sơn Hậu” là một kiệt tác nghệ thuật mang tính chất bi hùng hấp dẫn. Cấu trúc "Sơn Hậu” vô cùng hoành tráng với hàng chục vai diễn, với bao tình huống, tình cảnh đầy máu và nước mắt, được diễn ra trong nhiều đêm liền từng gây xúc động nhiều thế hệ khán giả. Hình tượng các trung thần nghĩa sĩ như Đổng Kim Lân,Khương Linh Tá... là những ngọn lửa rực cháy sáng giữa đêm dày đen tối mãi mãi bừng sáng hồn người.
Đoạn trích "Dũng khí của Linh Tá” chỉ là một màn tuồng ngắn trong vở tuồng "Sơn Hậu”. Lòng trung nghĩa, chí quả cảm, đức hi sinh của Khương Linh Tá, tình bạn chiến đấu keo sơn thắm thiết giữa Khương Linh Tá và Đổng Kim Lân được khắc hoạ sắc nét, đầy sinh động.
Màn tuồng này được tái hiện lại hai cảnh: cuộc chiến đấu giữa Khương Linh Tá với ba anh em Ôn Đình; sau khi bị tử thương, Linh Tá tự xách đầu mình, tay cầm ngọn kiếm chạy theo Kim Lân và thứ phi vượt qua vòng vây của bè lũ phản nghịch.
Đổng Kim Lân đưa hai mẹ con thứ phi chạy trốn. Với quyết tâm diệt cỏ thì nhổ cả rễ, Tạ Thiên Lăng sai ba người em là Ôn Đình, Lôi Phong, Lôi Nhược mang quân hùng tướng mạnh truy kích. Kim Lân gặp phải một tình thế cực kì hiểm nghèo. Giữa lúc đó, Khương Linh Tá xuất hiện, cầm ngang lưỡi gươm cùng đoàn kị mã xuất trận để cản hậu, để bảo vệ hai mẹ con thứ phi.
Linh Tá gặp ba anh em Ôn Đình, và cho biết mình đã lĩnh ấn tiên phong đem quân "đoạt lộ” với quyết tâm:
"Chém Kim Lân lấy quách đem về;
Bắt Phàn thị lập công báo hiệu”.
Lôi Phong và Ôn Đình đòi xem thánh chiếu thì Linh Tá bảo "chiếu chưa kịp viết” rồi hỏi lại: "Có thánh chiếu, có nhưng mà không - Vậy chứ tam vị đi đó cá chiếu hay không ? "
Kết thúc cuộc đấu trí gay go, Linh Tá hùng hồn tuyên bố, nêu cao lòng trung nghĩa quyết tâm diệt trừ "Tạ thị gian tà” lũ phản thần bất nghĩa:
"Mỗ dốc gánh Tề triều tôn xã;
Min lăm trừ Tạ thị gian tà.
Tận kì trung vốn có một ta;
Thủ kì nghĩa chém đầu ba gã”.
Mỗ, min, gã... là lời ăn tiếng nói đời thường dân dã. Tôn xã, gian tà, tận kì trung, thủ kì nghĩa... là ngôn từ Hán Việt trang trọng. Sự kết hợp đó là một nét riêng của ngôn ngữ nhân vật trong vở tuồng "Sơn Hậu”, tạo nên cốt cách, phong cách vừa bình dị vừa cổ điển.
Ôn Đình xua quân tướng xông vào quyết "chém đầu” kẻ đã dám "bẻ nạng chống trời”. Hai bên đánh nhau dữ dội. Giữa vòng vây, gươm của Linh Tá thấm đầy máu. Áo giáp và bờm ngựa nhuộm máu đỏ tươi. Tiếng người thét, tiếng gươm giáo khua vang, tiếng ngựa hí... vang trời dậy đất. Rồi Ôn Đình chém rơi đầu Linh Tá. Linh Tá tay xách đầu mình, tay vung gươm chém giặc, phi ngựa chạy. Có được mục kích vở tuồng "Sơn Hậu” đang diễn ra trên sân khấu thì khán giả mới cảm nhận được cảnh tượng bi hùng. Văn bản tuồng chỉ "nói” với ta một phần nhỏ mà thôi.
Khi nhìn thấy Linh Tá "xách đầu ruổi chạy” như tên bay, Ôn Đình "sởn gáy” ghê sợ và hắn cảm thấy đó là một chuyện "dị thường” xưa nay. Bị tử thương giữa trận tiền, tư thế lẫm liệt hiên ngang của Linh Tá còn làm cho kẻ tử thù phải khiếp sợ:
"Chém Linh Tá đầu rơi khỏi cổ;
Y xách đầu ruổi chạy dường tên.
Xem bỗng thấy dờn dờn;
Hòa mình đều sởn gáy.
Advertisements (Quảng cáo)
Luận như đấng ấy
Kim cổ dị thường”
Có thế nói cảnh Linh Tá "xách đầu ruổi chạy” là một cảnh bi tráng nhất trong vở tuồng "Sơn Hậu” được tác giả sáng tạo nên đã làm nổi bật khí phách anh hùng của đấng trượng phu phi thường, của bậc trung thần dám xả thân vì đại nghĩa.
Sau khi chém rơi đầu Linh Tá, Ôn Đình xua quân đuổi theo Kim Lân và thứ phi quyết thực hiện mưu ma chước quỷ. Linh Tá, Kim Lân, thứ phi nối tiếp nhau cất lời than, cùng thổ lộ nỗi niềm. Tình bạn chiến đấu vào sinh ra tử có nhau, nguy khốn có nhau như ngọn lửa bất diệt toả sáng tâm hồn, trái tim nhân vật.
Tự xách đầu mình chạy theo "hiền hữu” Đổng Kim Lân, Linh Tá tiếc cho mình bị sa cơ, than cho sự nghiệp người anh hùng cớ sao lại bị đất dày hãm hại (địa hậu hà hại ngã?). Dù phải "xa chơi dị lộ”, nhưng Linh Tá vẫn không quên nhắc nhở, cậy nhờ người bạn chiến đấu:
"Cậy anh phò hoàng tử thứ phi
Khá gắng sức phù Tề, diệt Tạ”
Đó là lời trăng trối của nghĩa sĩ. Đó là lời tâm huyết của những anh hùng thời loạn cùng chung lí tưởng trung quân, cùng đồng sinh đồng tử! Ngã xuống trên chiến địa mà vẫn "không nguôi lời thề”: tận trung và quyết chiến "phù Tề, diệt Tạ”.
Trong cơn bi thương và nguy kịch, Kim Lân vô cùng thương xót Linh Tá. Nhìn đầu bạn đầy máu rơi xuống đất, mà lòng đau khôn xiết kể. Biết ngày nào mới gặp lại nhau? Gan ruột đau đớn như cắt ra từng khúc, lòng tái tê buồn đau, lệ đầm đìa tuôn chảy:
"Thống thiết cát can li đoạn đoạn;
Sầu đê mê lệ sái uông uông!”
Giọng văn lâm li thống thiết. Trong tiếng than có lời nguyền. Ngôn ngữ các vai tuồng biến hoá. Các điệu hát như giá ban, than, tán, nói, nam - của các nhân vật được thể hiện biến hoá làm nổi bật lòng xót thương, nỗi buồn đau, tình ngưỡng mộ vô cùng sâu sắc.
Linh Tá đã hi sinh nhưng tinh thần người nghĩa sĩ còn sáng mãi: "Vị quốc gia chi đại nghĩa – Hoài cơ nghiệp tận kì trung”. Một tấm da ngựa bọc thây bạn, một nấm mồ liệt sĩ ven đường, ngoái đầu nhìn lại, Kim Lân "cúi đầu... dời chân”, tự hào về Linh Tá, nguyện noi gương mà nuôi chí phục thù:
"Lợi bất cầu, gắng câu nghĩa khí;
Sánh bách tùng, là chí trượng phu”.
Sự hi sinh lẫm liệt của Linh Tá làm cho thứ phi vừa đau đớn vừa quyết tâm nuôi dưỡng và giữ vững ý chí chiến đâu sắt son: "Vận nghèo hè cả rúng xiêu - Vạc nghiêng đỡ vạc, thành xiêu bồi thành”.
Có một đạo diễn đã nói: "Có được xem diễn tuồng mới thấy được cái hay của tuồng, nếu chỉ đọc tuồng thì mới gặp anh hùng trong mộng. Vai diễn, phục sức, hoá trang, đạo cụ, âm nhạc, ánh sáng, phông màn... tất cả đều góp phần làm nên vẻ đẹp cổ điển, hoành tráng, bi tráng của các vở tuồng pho như "Sơn Hậu”, “Tam nữ đồ vương ", "Trầm hương các”, "Đào Phi Phụng”, "Quan Công phá quan”, v.v... của Đào Tấn sáng tạo nên và để lại cho nghệ thuật sân khấu dân tộc. Nhiều câu hát bằng chữ Hán trong vở tuồng "Sơn Hậu” không dễ hiểu đối với nhiều người.
Qua màn tuồng này, cốt cách anh hùng phi thường, lòng trung nghĩa sắt son, tình bạn chiến đấu vào sinh ra tử có nhau... của Khương Linh Tá và Đổng Kim Lân mãi mãi như ánh sao băng rực sáng giữa đêm dày thời loạn. Họ là những anh hùng tận trung vì đại nghĩa được người đời ngưỡng mộ, như Đào Tấn viết:
"Lao xao sóng vỗ ngọn tùng,
Gian nan là nợ anh hùng phải vay”.