Nổi bật lên trong tác phẩm Chí Phèo là hai nhân vật đối địch nhau: Bá Kiến và Chí Phèo. Đó là sự đối đầu giữa một bên là Bá Kiến, đại diện cho giai cấp thống trị của xã hội đương thời và một bên là Chí Phèo, tiêu biểu cho tầng lớp nông dân bị tha hóa về mặt nhân cách. Cũng cần nói thêm sự tha hóa của Chí không phải là bẩm sinh mà nó được phát sinh trong quá trình vận động và phát triển của nhân vật giữa xã hội thối tha vô nhân đạo. Trước kia Chí cũng là một người lương thiện từng làm canh điền cho nhà cụ Bá, sau đó bị Bá Kiên đẩy vào vòng tù tội. Cuộc đời tù đày đã làm thay đổi hẳn con người hiền lành chất phác, Chí trở thành một kẻ liều lĩnh, một con quỉ của làng Vũ Đại, kẻ bị biến chất, bị tha hóa về mặt nhân cách. Và ôm ấp trong lòng một mối thu không gì xóa được, nếu thời điểm Chí ra tù làm mốc thì có thế nói Chí đã ba lần đi tìm gặp kẻ thù là Bá Kiến. Ba lần diễn ra trong ba hoàn cảnh, ba động cơ khắc nhau.
Lần thứ nhất, là lúc Chí vừa ở tù về “Hắn về hôm trước, hôm sau đõ thấy ngồi ở chợ uống rượu” và trong cơn say khướt, đã xách vỏ chai đến cổng nhà Bá Kiến gọi tên tục ra mà chửi. Đó là lối hành động của một kẻ say rượu mà đã có trong tiềm thức của Chí Phèo. Cộng thêm những năm tháng tù đày mối thù ấy càng được hun đúc, nuôi dưỡng ngày càng sâu sắc và đậm hơn. Bao năm ngồi tù Chí đã có dịp nghiền ngẫm cân nhắc trước khi đi đến quyết định đúng đắn. Cho nên, hơn bao giờ hết, vừa rời khói nhà tù là Chí đã sôi sục một ý thức trả thù. Sự căm thù kẻ gây ra tội lỗi và đẩy mình vào con đường đau khổ đã dẫn đường Chí đến nhà cụ Bá dù là đang trong cơn say khướt. Hành vi của Chí hoàn toàn liều lĩnh và mang tính bột phát. Hơn nữa dù gì trong sâu xa bản chất của Chí cũng chỉ là một nông dân thật thà đến mức gần như ngây thơ cho nên sự thất bại của Chị trong lần đối đầu đầu tiên này là một chuyện rất hiển nhiên. Làm sao qua được kẻ khôn róc đời như Bá Kiến. Bá Kiến là kẻ tinh ma xảo quyệt, lắm mưu nhiều kế nên đối phó với Chí chẳng lấy gì là khó khăn. Chỉ thoáng nhìn qua là Bá Kiến đã hiểu được ý đồ của đối phương. Nên Chí mới thất bại ê chề, cay đổng trước những lời vuốt ve, ngon ngọt cộng thêm vài đồng đã làm lóa mắt Chí. Từ một vị trí là kẻ đi hỏi tội kẻ thù chỉ thoắt một cái ván cờ đã lật ngược: kẻ có tội lại ung dung như một kẻ ra ơn còn người hỏi tội lại thành tay sai phục dịch cho kè thù mà không hay biết.
Lần thứ hai cũng trong dáng điệu say mềm Chí ngật ngưỡng đến nhà Bá Kiến gặp hắn để xin được đi tù. Thật là một chuyện ngược đời. Thuở nay chưa thấy ai làm một chuyện phi lí đến mức vậy chắc chỉ có Chí Phèo. Tuy là nghịch li đây nhưng lại phản ánh đúng thực tại của Chí. Không có cơm ăn, áo mặc, một mảnh đất cắm dùi cũng không. Cảnh ngộ bi đát của Chí cũng phần nào phản ánh đúng hiện trạng xã hội lúc bấy giờ đó là những người lầm đường lạc lối, trót sa chân vào vũng bùn của tội lỗi thì không sao rút chân ra được. Chí bị tù đến khi được trả về cuộc sống đời thường thì lại không tìm được kế sinh nhai hay nói đúng hơn là không được tiếp nhận và vì thế lại tiếp tục bị đẩy vào bước đường cùng. Nghe Chí nói với Bá Kiến mà thấy xót xa trong dạ: “Bẩm quả đi tù sướng quá đi, ở tù có cơm ăn, bây giờ về làng về nước một thước cắm dùi không có...”. Sự thật như thế ư? Nhà tù là chốn dung thân ư? Trên câu chữ thì ta không thể nghĩ khác được. Nhưng nếu nghĩ sâu xa một chút ta mới thấy ngỡ ngàng và lương tâm chẳng được thanh thản. Nhà tù nuôi con người ư? Không, bảo nó nuôi dưỡng những con người bị tha hóa, những con quỷ như Chí Phèo thì đúng hơn. Nếu như ý nghĩa của nhà tù là để cảnh tỉnh, cải tạo con người, trả con người về với cuộc sống hoàn lương thì nhà tù ở đây lại thực hiện ngược lại. Nó biến những kẻ lương thiện trở thành một loại người lưu manh khốn nạn. Nhà văn Huy-gô rất đúng khi nói: “Khi chưa vào tù anh là một cành cây tươi, khi ra tù anh là một cây củi khô”. Cũng như lần trước, Chí lại thất bại trước cái khôn róc đời của cụ Bá: bị gạt mà không hề nhận ra. Âm mưu của Bá Kiến mới thâm độc làm sao. “Dùng độc trị độc”, dùng Chí Phèo để trị đội Tảo. Cả Chí và đội
Tảo đều là kẻ thù của hắn, nên và chăng có xảy ra xô xát, ai được, ai mất cụ đều có lợi, vừa thỏa mãn được ý định trả thù vừa không phải mang tiếng là kẻ báo thù nhỏ nhen, đê tiện.
Advertisements (Quảng cáo)
Lần thứ ba cũng là lần chót Chí đến gặp Bá Kiến. Cũng với dáng dấp của thằng say rượu nhưng lần này Chí mang trong lòng một tâm trạng, một ý định khác hẳn với những lần trước. Bởi vì Chí Phèo sau khi bị Thị Nở cự tuyệt tình cảm của mình đã hoàn toàn rơi vào tuyệt vọng. Trong thâm tâm Chí đang ôm ấp ý định làm lành, muốn quay về con đường hoàn lương sống cuộc đời lương thiện như bao người khác. Nhưng xã hội vô nhân đạo đã quay lưng trước sự ăn năn sám hối của một tội đồ, tình thương đã khép lại, xã hội đã rút đường trở về của Chí cũng như cự tuyệt quyền làm người của một con người. Vĩnh viễn Chí không tìm thấy hạnh phúc ở cuộc đời này. Bản chất người vừa trỗi dậy lại bị đè bẹp không thương tiếc. Có thể nói đây là những giờ phút tỉnh táo nhất trong cả cuộc đời say sưa của Chí, những phút mà ý thức phản kháng trỗi dậy mãnh liệt nhất. Đi gần hết cuộc đời, cho đến lúc này Chí mới phát hiện mới nhận ra chân lí cuộc sống. Dù là muộn màng nhưng với Chí sự khám phá ấy quý giá biết bao và Chí quyết giữ chặt lấy nó không để nó tuột khỏi tầm tay dù lả phải trả một giá rất đắt. Chí như vừa thức dậy sau một giấc ngủ dài, một sự chuyển biến rất lớn đang diễn ra trong tâm hồn của Chí. Ấy là sự trỗi dậy của tính người, tính lương thiện. Chí đã nhận ra chân tướng của kẻ thù, kẻ ấy là Bá Kiến chứ không ai khác cho nên lẽ ra phải đến nhà Thị Nở thì tiềm thức sâu xa đã dẫn Chí đến nhà Bá Kiến. Trong lần đối đầu sau cuối này, Chí hoàn toàn được lột xác, sự thay đổi đột ngột và nhanh chóng đến mức Bá Kiến không ngờ được. Chính vì không nắm bắt được đối phương, lại chủ quan khinh địch nên Bá Kiến thất bại một cách thảm hại. Hắn đã phải trả giá đắt cho hành vi tội lỗi của chính hắn. Với dáng dấp hiên ngang, ngạo mạn, Chí chỉ tay vào mặt Bá Kiên mà ra lời dõng dạc: “Tao muốn làm người lương thiện”. Tư thế ấy ta chưa từng bắt gặp ở Chí. Trước đây hắn chỉ biết cúi đầu lễ phép, một điều bẩm cụ hai điều lạy cụ. Đó là sự chuyển biến và tự khẳng định mình của Chí. Ngôn ngữ của Chí càng lúc càng đậm màu triết lí: “Ai cho tao lương thiện? Tao không thể là người lương thiện”. Lời cuối cùng được thốt lên với tất cả niềm cay đắng xót xa. Chí đã bị đẩy đên bước đường cùng. Không còn lối thoát, không còn cách lựa chọn nào khác chỉ còn chấm dứt cuộc đời của kẻ thù rồi sau đó tự chấm dứt cuộc đời mình. Màn bi kịch kết thúc đẫm máu và nước mắt.
Tác phẩm Chí Phèo đã để lại trong lòng người trăn trở, bao suy tư ray rứt. Truyện đã phác họa thành công bức tranh về đời sống ở nông thôn Việt Nam thời kì 1930-1945. Nó đã trình bày sự mâu thuẫn và xung đột gay gắt giữa bọn cường hào ác bá và những người nông dân nghèo hèn rách rưới bị đẩy vào con đường tội lỗi, mà tiêu biểu là Bá Kiến và Chí Phèo. Những mâu thuẫn nội tại ấy đã cho thấy sự xấu xa thối nát của xã hội đương thời. Hơn bao giờ hết bức tranh nông thôn Việt Nam hiện ra mới xơ xác tiêu điều làm sao. Nó đầy rẫy những hạng người hèn hạ, đốn mạt (Bá Kiến, đội Tảo, bà Ba..) cũng như những tệ nạn xã hội, rượu chè, cờ bạc, trộm cướp có thời cơ phát triển. Một xã hội không chỉ có sự bần cùng hóa mà còn có cả sự lưu manh hóa, về điểm này tác giả đã gây dựng rất thành công chân dung của một người nông dân mới: Chí Phèo. Hình ảnh Chí trở thành một điển hình văn học, một kiểu mẫu của loại người bị tha hóa về mặt nhân cách, vừa sống động vừa độc đáo, mới mẻ. Cũng qua đó bật lên tấm lòng nhân đạo cao cả, một sự cảm thông, một thái độ tôn trọng sâu sắc đối với số phận của những kẻ thấp cổ bé họng. Bị xã hội chà đạp. ruồng rẫy, chối bỏ thậm chí tước bỏ cả quyền làm người của một con người. Những kẻ mà xã hội cho là cực kì xấu xa ấy, dưới con mắt yêu thương của tác giả vẫn còn một chút gì là tình người và sự phản kháng muốn chống lại xã hội, muốn bứt ra khỏi xã hội vô nhân đạo không có một chút tình thương người ấy. Toát lên từ tác phẩm là niềm khát khao hạnh phúc, khát khao quyền làm người và khát khao tình người. Đặc biệt là tiếng kêu trước lúc giãy chết của Chí Phèo. Nó chứa đựng một tư tưởng vô cùng cao đẹp. Đó là tiếng kêu cứu của một con người, một số phận bị vùi dập: “Ai cho tao lương thiện? Tao muốn làm ngươi lương thiện”. Tiếng kêu mới đau đớn và tha thiết làm sao. Nó cứ xoáy vào lòng người, nó làm ta phải băn khoăn ray rứt, nó kêu gọi, hay nói đúng hơn nó đặt ra một vấn đề có tính chất nan giải, một vấn đề chung không của riêng ai, ấy là: “Số phận con người”. Nó kêu gọi tình người, kêu gọi sự quan tâm đến số phận của những kẻ bất hạnh. Kêu cứu vấn đề nhân phẩm con người đang trên đường hủy hoại. Nó đặt ra một nhiệm vụ nóng bỏng là hãy cứu lấy nhân phẩm, hãy bảo vệ quyền làm người của một con người, kêu gọi thực hiện chân lý: “Người với người sống để yêu nhau’’.
Tác phẩm đã gián tiếp tố cáo xã hội nhớp nhúa bẩn thỉu không có tính người. Xã hội ấy là nơi sản sinh và nuôi dưỡng những người như Chí Phèo. Con người sống trong xã hội ấy khác nào sống trong vòng cùng quẫn bế tắc. Chí Phèo này chết đi thì có Chí Phèo khác ra đời thay thế. Chi tiết cuối cùng của tác phẩm miêu tả Thị Nở (sau khi Chí Phèo chết), thoáng thấy hiện ra một cải lò gạch bỏ không, vắng người qua lại... Phải chăng tác giả kín đáo báo hiệu mộ; Chí Phèo con sắp ra đời.
Có người cho rằng đó là kết thúc bi quan. Tại sao lại không nghĩ rằng Nam Cao đang kêu gọi chúng ta hãy cứu lấy những đứa con Chí Phèo, hãy đập nát những lò gạch cũ để cho con người sống với nhau trong sáng hơn, cao đẹp hơn?