Trang chủ Lớp 11 Ngữ văn lớp 11 (sách cũ) Trí tường tượng phóng túng và tấm lòng ưu ái của Tản...

Trí tường tượng phóng túng và tấm lòng ưu ái của Tản Đà qua bài thơ Hầu Trời...

Hầu Trời - Tản Đà - Trí tường tượng phóng túng và tấm lòng ưu ái của Tản Đà qua bài thơ Hầu Trời. Bài thơ Hầu Trời là một tác phẩm đặc sắc của nhà thơ Tản Đà. Với những chi tiết, tình huống hấp dẫn và pha chút khôi hài, bài thơ đã thể hiện được tri tưởng tượng phóng túng của nhà thơ

Nói đến Tản Đà, chúng ta nói đến sự nghiệp thơ ca của một nhà thơ đầy cá tính, nhất là cá tính “ngông” của ông. Trong suốt nhiều sáng tác, Tản Đà đả thể hiện cái “tôi” của mình một cách linh hoạt và lí thú. Qua những tác phẩm đó, người ta thấy một tinh thần luôn hưóng đến sự tự do cá nhân của một người con trong đất nước mất chủ quyền. Với tài năng thơ ca sẵn có, cùng với một hồn thơ tự do phóng khoáng, ông đã viết bài thơ Hầu Trời với những câu thơ mang giọng điệu bình dân như lời nói thường. Bài thơ thể hiện trí tưởng tượng phong  phú và nghệ thuật thơ tài ba của Tản Đà.

Trong văn chương nghệ thuật, chữ “ngông” thường nói về đặc điểm cá tính  của một nhà thơ, nhà văn nào đó, nhưng cái “ngông” trong mỗi con người lại có

những cách khác nhau. Với Tản Đà chữ “ngông” kia dành đẽ nói lên cá tinh của một nhà thơ khao khát tự do cá nhân trong thời đại đất nước mất chú quyều. Vì vậy, có thể thấy ở nhà thơ này có những nét cá tính khác biệt so với các nhà thơ cùng thời. Được mệnh danh là dấu gạch nối giữa hai thời kì, nhà thơ Tản Đà đã thể hiện một hồn thơ đậm chất truyền thống nhưng cũng không ít tính hiện đại. Sáng tác bài thơ Hầu Trời, Tản Đà mang đến một luồng sinh khí mới thổi phồng những ước mơ được vươn lên cao, vươn xa hơn, thoát khỏi vòng giam hãm nặng nề của chế độ thực dân, phong kiến đương thời.

Bài thơ tưởng tượng một câu chuyện “lên trời” của nhà thơ với những lời kế dí dỏm và lí thú. Đầu tiên là giấc mơ nhưng sau đó là sự thật: “Thật được lên tiên - sướng lạ lùng”. Thế rồi khi đã đến nơi “Thiên môn để khuyết” thì việc “hầu trời” mới bắt đầu, qua từng giai đoạn và tuần tự theo hệ thõng chặt chẽ. Sau khi được “nhà trời” tiếp đón có thể nói là long trọng, nhân vật trữ tình bắt. đầu công việc “hầu trời” đầy tự hào của mình:

“Chư tiên ngồi quanh đã tĩnh túc

Trời sai pha nước để nhấp giọng,

Truyền cho “vãn sĩ đọc văn nghe”

Dạ bẩm lạy Trời con xin đọc”.

Có lẽ đó là lúc hào hứng và tự hào nhất cúa người đi “hầu trời”, bởi sự nồng nhiệt và trân trọng của “nhà trời” khi có người đến “hầu văn”, mà văn mới thật hay, thật tuyệt vời và đủ mọi thứ văn:

“Đọc hết vãn vẩn sang văn xuôi

Hết văn lí thuyết lại văn chơi

 Đương cơn đắc ý đọc đã thích

Chè trài nháp giọng càng tốt hơn”.

Phải nói rằng người đi hầu trời thật dồi dào về văn chương, văn vần cùng lắm mà văn xuôi cũng thật nhiều. Vì vậy mà càng đọc dường như càng đắc ý vì đây là cơ hội hiếm hoi để được “phô trương văn nghiệp”. Sự thật là nhân vật trữ tình ở đây đã tha hồ được thể hiện tài nâng của mình, đến mức:

“Trời nghe, Trời cũng lấy làm hay

Tâm như nở dạ, Cơ lè lưỡi

Hằng Nga, Chức Nữ. chau đôi mày”

Đến lúc này cả “Chư tiên” và “nhà Trời” đều cảm thây phấn khích vì sự giàu có văn thơ của người hầu. Tiếp theo công việc “hầu văn”, nhân vật trữ tình của bài thơ bắt đầu “khoe” về tài năng văn chương và sự nghiệp vinh quang cùa mình. Người hầu trời lần lượt kế về những tác phẩm được coi là "áng văn” của mình cho “nhà Trời” nghe: bắt dầu là hai quyển “Khối tình”, rồi đến “Khôi tình con”, “Thần tiên”, “Giấc mộng’’ ... Tất cả đều đã được in ấn ti mỉ, nhưng không biết “bán” cho ai nếu không nhờ “nhà Trời”.

Advertisements (Quảng cáo)

Cả một đoạn thơ dài dường như là lời tự đắc của nhân vật trữ tình về thơ ca của mình, đến nỗi: “Trời nghe, Trời cũng bật buồn cười”. Thật ra sự hứng khởi ấy chỉ là phút đầu của niềm vui sướng khi được “nhà trời” đón nhận vãn thơ, nhưng đến những khổ thơ sau, nhân vật trữ tình lại “ca thần” về sự nghèo khổ của mình ở hạ giới và để được “Thiên Tào” tin tưởng. “Người văn sĩ” đã khai đầy đủ họ tên. quê quán và hoàn cảnh cơ hàn của mình ở trần gian. Nhưng vì việc “Thiên lương cùa nhân loại” nên dẫu nghèo “thước đất cũng không có”, “văn sĩ” vẫn dồi dào về vốn liếng văn chương. “Văn chương hạ giới rẻ như bèo” nên sống bằng nghiệp văn tại đó thật là nghèo khó. Trong cả một đoạn thơ dài, nhân vật, trữ tình kể về sự khốn khó của mình khi thực hiện “việc thiên lương của nhân loại” có vẻ như công việc Trời sau là quá nặng khi phải làm tại trần giới.

“Học ngày một kém, tuổi ngày cao

Sức trong non yếu ngoài chen rẩp

 Một cây che chống bốn năm chiều”

Một thực tế được tỏ bày của “người trần gian” với “nhà trời” đó là một cuộc sống khốn cùng trong cái xả hội ngột ngạt khó thở ở “hạ giới”, “Nhà trời” cũng thấu hiểu và nói rằng:

“Con không nói, Trời đã biết

Trời dẫu ngồi cao, Trời thấu hết

Thôi con cứ về mà làm ăn,

Lòng thông chớ ngại chi sương tuyết”.

Lời khuyên và lời an ủi của nhà trời như là sự cứu cánh cho cuộc sống vốn nghèo nàn và buồn thảm của nhân vật trữ tình ở “hạ giới”. Nhưng đâu đó trong thâm tâm, nhân vật trữ tình đã thầm trách “nhà trời” về sự không công bằng, chinh sự bất công đó mới đem đến những cuộc “bán văn” như vậy tại Thiên đình.

Dù ở “chợ Trời” văn bán trôi chảy vì sự đón nhận nồng nhiệt của “Thiên tiên”, nhưng “vâng lời Trời dạy”, đành phải chắp thuận quay trở về “hạ giới” để lại sự tiếc nuối khôn nguôi trong lòng người đì “hầu trời”.

Có một điều dễ thấy của bài thơ Hầu Trời đó là sự mộc mạc, binh dị cùa giọng điệu. Bài thơ rất giống với lời nói bình thường, vì vậv khi dõi theo công việc Hầu Trời của nhân vật trữ tình, chúng ta luôn ớ trong trạng thái tâm li nhẹ nhõm và đôi lúc có thể khiến ta phải nở nụ cười. Đó là đặc trưng của thơ Tản Đà, vừa dí dỏm lại vừa sâu sác trong từng câu thơ.

Đây là bài thơ thề hiện cái “ngông” một cách rõ nét nhất. Qua việc xây dựng nhân vật trữ tình với công việc văn lên “hầu trời”, cho thấy tác giả đã ý thức một cách sâu sắc về tự do cá nhân của mình. Ớ thời điểm bây giờ, viết ra những bài thơ như vậy chứng tỏ nỗi khao khát dược thế hiện cái “tôi” của nhà thơ lên đến cao độ.

Bài thơ được xây dựng theo lối kết cấu nhiều đoạn nhiều khổ thơ khác nhau và số lượng câu thơ có thể nói là đài đối với nội dung bài thơ. Nhưng đó không phải là nhược điểm mà là đặc điểm cùa thơ Tản Đà.

Với các hình ảnh mang ý nghĩa tượng trưng như “sông Ngân Hà”, “Hằng Nga, Chúc Nữ”, “Khiên Ngưu” ... bài thơ gây được những ấn tượng phong phú vá độc đáo trong lòng người đọc. Nhà thơ với việc xây dựng những chi tiết, những

tình huông “lên Trời”, “hầu Trời”, sau dó là xuống “hạ giới”, tạo cho bài thi chất, khôi hài, dí dỏm, lạ lùng.

Bài thơ này cho thây trí tướng tượng cùa nhà thơ thật phóng túng. Mọi hình ảnh, tình huống trong bài thơ đều nằm trong khuôn khổ của sự tưởng tượng nhằm đạt đến hiệu quả tuyệt đối khi bày tỏ nỗi lòng mình của nhà thơ. Cách diễn đạt trạng thái tâm lí của nhân vật trữ tình cũng tự nhiên, cởi mở đã làm cho tinh thần của bài thơ đậm chất tự sự hơn. Thực chất bài thơ này là một câu chuyện kể về việc mang văn lên “hầu Trời” của thi sĩ Tản Đà, qua đó thế hiện nỗi khao khát được “tung hoành” của nhà thơ đế thực hiện cái mục tiêu truyền bá “thiên lương’’ cao quý.

Bài thơ Hầu Trời là một tác phẩm đặc sắc của nhà thơ Tản Đà. Với những chi tiết, tình huống hấp dẫn và pha chút khôi hài, bài thơ đã thể hiện được tri tưởng tượng phóng túng của nhà thơ. Qua đó ta thấy được ý thức cá nhân cùa thi sĩ được nâng lên vượt qua những trở ngại cúa hiện thực xã hội. Với kết câu và nghệ thuật độc đáo, bài thơ “Hầu Trời” đã thể hiện cái “ngông” của nhà thơ một cách rõ nét nhất, xứng đáng là “con đẻ tinh thần” của một thi sỉ đầy cá tính như Tản Đà.

Bạn đang xem bài tập, chương trình học môn Ngữ văn lớp 11 (sách cũ). Vui lòng chọn môn học sách mới cần xem dưới đây:

Advertisements (Quảng cáo)