Trang chủ Lớp 11 Ngữ văn lớp 11 Truyện ngắn Hai đứa trẻ và ngòi bút Thạch Lam, Tuy là...

Truyện ngắn Hai đứa trẻ và ngòi bút Thạch Lam, Tuy là một thành viên của Tự lực văn đoàn nhưng tư tưởng thẩm mĩ cùa Thạch Lam đi theo một ...

Hai đứa trẻ – Thạch Lam – Truyện ngắn Hai đứa trẻ và ngòi bút Thạch Lam. Tuy là một thành viên của Tự lực văn đoàn nhưng tư tưởng thẩm mĩ cùa Thạch Lam đi theo một hướng riêng. Văn chương của ông thường hướng vể một tầng lớp tiểu tư sản, trí thức nghèo và những con người bé mọn

Advertisements (Quảng cáo)

Truyện ngắn Hai đứa trẻ và ngòi bút Thạch Lam.

BÀL LÀM

Tuy là một thành viên của Tự lực văn đoàn nhưng tư tưởng thẩm mĩ cùa Thạch Lam đi theo một hướng riêng. Văn chương của ông thường hướng vể một tầng lớp tiểu tư sản, trí thức nghèo và những con người bé mọn. Thạch Lam có sợ trường về truyện ngắn, nhất lạ những truyện ngắn tâm tình, không có cột truyện đặc biệt nhưng thấm đượm tình cảm nhân ái sâu sắc. Nhà văn có khả năng đi sâu phân tích thế giới nội tâm nhân vật một cách tinh tế. Hai đứa trẻ là mọt trong những truyện ngắn như thế của ông.

Trong truyện này, Thạch Lam đã lặng lẽ hướng ngòi bút vào việc phân tích cuộc sống của những người dân lao động nghèo khổ nơi phố huyện đìu hiu với sự cảm thông sâu sắc và lòng thương xót chân thành. Nổi bật lên trong bức tranh phố truyện này là tâm trạng của hai, chị em Liên và An thức chi để đợi một chuyến tàu khách hàng đêm đi qua.

Chuyện chỉ có thế từ lúc miêu tả, màn đêm buông xuống, đến tận đêm khuya nơi phố huyện, ngỡ như chẳng có gì để nói, thế nhưng Thạch Lam đã nói được biết bao điều về những kiếp người nghèo quẩn quanh với một tinh thần nhân đạo độc đáo và thấm thía.

Đọc hai đứa trẻ, hình ảnh hai chị em Liên cứ ám ảnh mãi trong tâm trí của chúng ta, đặc biệt là chi tiết đêm nào hai đứa trẻ này cũng cố thức chờ đi chuyến tàu di qua rồi mới dọn hàng đi ngủ. Những giây phút được nhìn hình ảnh con tàu với “các toa đèn đều sáng trưng, những toa hạng trên sang trọng lố nhố người, đồng và kền lấp lánh và các cửa kính sáng…” vun vút lao qua trong đêm tối, tâm trạng hai chị em lại rộn lên. Thoáng vui một chút để tạm quên đi cảnh đời nghèo nàn tẻ nhạt của phố huyện hàng ngày.

Chỉ cần thấy cảnh Liên xếp hàng hoá của mình vào hòm, cách tính tiền bán hàng của hai chị em và nhất là ý nghĩ gánh phở của bác Siêu là món quà xa xỉ không bao giờ chị em Liên có thể mua được, người đọc cũng đủ cảm nhận gia cảnh và mức sống của gia đình Liên ra sao ? Cha mất việc, mẹ đưa cả nhà từ Hà Nội về quê. Hàng ngày mẹ làm hàng xáo, lại thuê thêm một gian hàng nhỏ ngoài chợ huyện giao cho hai chị em trông nom. Lời lãi của việc bán hàng chẳng là gì cả nhưng cũng là nguồn thu phụ cho một gia đình vốn đã lao đao không thê sống nổi ở Hà Nội.

Tuy mới mười tuổi đầu nhưng Liên đã sớm tỏ ra là một cỏ gái đảm đang, chịu thương, chịu khó. Cô có chiếc chìa khóa đeo vào chiếc xà tích ở thắt lưng : “Chiếc xà  tích và cái khóa chị quý mến và hãnh diện vì nó tỏ ra chị là người con gái đảm đang”.

Mở đầu tác phẩm chúng ta đã bắt gặp hình ảnh Liên “ngồi yên lặng bên mấy quà thuốc sơn đen : đôi mắt chị bóng tối ngập giấy dán và cái buồn của buổi chiêu quê thấm thía vào tâm hồn ngây thơ của chị; Liên không hiểu sao nhưng chị thấy lòng buồn man mác trước cái giờ khắc của ngày  tàn”. Từ phiên chợ chiều nơi phố huyện đã vãn một mùi âm ẩm bốc lên, hơi nóng của ban ngày lẫn với mùi rác rưởi, vỏ bưởi, vỏ thị, lá nhãn, bả mía quen thuộc quá “khiến chị em liên tưởng đến mùi của quê hương này”. Hai chị em Liên còn nhỏ đã phải tự trông nom nhau, vừa trông coi cửa hàng ngày ngày, thiếu vắng bàn tay chăm sóc của người mẹ, vì bà còn mãi đi làm hàng xáo tần táo nuôi con. Tuy cuộc sống có tẻ nhạt, phẳng lặng, tù túng nhưng tâm hồn của những con người nhỏ bé ấy vẫn ánh lên vẻ đẹp tình yêu quê hương, tình người. Liên có một tấm lòng nhân, hậu hiếm thấy. Nhìn những đứa trẻ nghèo nhặt nhạnh, tìm tòi, mót chợ, Liên động lòng thương nhưng lại không có tiền mà cho chúng, bởi vì đời sống của hai chị em cô cũng không sung sướng gì. Tình cảm của cô không chỉ nghiêng tràn cho những đứa bé nghèo bởi rác mà còn san sẻ cho cả bà cụ Thi, một bà già hơi điên, cho chị Tí, cho bác xẩm… Ngoài ra, Liên cũng rất ân cần với em trai mình. Cô thương và chu đáo hết lòng với em. Chi tiết Liên quạt cho em trong lúc thức đợi chuyến tàu qua nói lên điều đó. Có thể nói cô gái bé nhỏ này sinh ra đời để yêu thương. Nlũrng rung động ấy, những tình cảm như vậy chí có thể có được ở một tâm hồn trong sáng, cao đẹp và nhạy cảm. Trong thế giới đìu hiu của phố huyện nhỏ, Liên đã ý thức, cảm nhận đầy đù, sâu sắc cuộc sống buồn tẻ và tù đọng.

Buồn chán nhất là ngày nào cũng như ngày nào, đều đểu, hai chị em Liên và An cũng phải ngồi trong cái cửa hàng tạp hoa nhỏ xíu ấy, bán những món hàng nhỏ bé ít tiền : bao diêm, gói thuốc lào, bánh xà phòng… trong chập choạng bóng hoàng hôn, vo ve tiếng muỗi, đếm lại món tiền nhỏ nhoi vừa bán được. Đều đều, ngày nào cũng chờ đợi những người khách nghèo khổ quen thuộc. Buổi chiềụ vừa xuống, sự xuất hiện của hàng nước chị Tí, gánh phở bác Siêu… ngày nào cũng là cái mốc để hai chị em đo đếm thời gian mong đợi chuyến tàu mau qua. Cả hai chị em tuy đã buổn ngủ nhưng mắt vẫn cố thức để chờ chuyến tàu. Cho đến khi Ân đã không thể nào thức được nữa đành gối đầu lên đùi chị, mi mắt sắp sửa rơi xuống còn dặn với : “tàu đến chị đánh thức em dậy,nhé”. Cảnh tượng ấy buồn bã, xót xa. Đối với cuộc sống phố huyện, hình ảnh con tàu đêm hiện ra như một giấc mộng đẹp đem lại cho đám người nghèo khổ kia một thoáng sống của thế giới thần tiên xa lạ. Đem tới một mơ ước xa xôi khó trờ thành hiện thực, nhưng vẫn có gì như là niềm an ủi dù trong chốc lát cho cảnh đời cơ cực, hiu hắt của họ. Riêng với chị em Liên, hình ảnh con tàu đã trở thành niểm say mê. Vì không những nó đã đi quạ. sự phẳng lặng, tẻ nhạt của đời sống phố huyện mà còn mang “những ngày hạnh phúc đã qua” trở lại, đánh thức trong hai chị em những kỉ niệm đẹp về Hà Nội, làm cho ước mơ về một cuộc sống tốt đẹp hơn sống dậy. Do vậy, đêm nào cũng thế tàu sắp đến, dường như mọi người ở phố huyện ai cũng tỉnh hẳn. Riêng Liên cũng dắt em mình đứng lên nhìn cho rõ như là để đón nhận và thỏa mãn những cái gì sâu sắc lắm, thân mến lắm mà lòng trẻ thơ không nhận ra được.

Con tàu lướt qua chí thấy “các toa đèn sáng trưng… những toa hạng sang trọng lố nhố gười đồng và kền lấp lánh”. Khi tàu đi xa rồi, hai chị em Liên còn luyến tiếc nhìn theo cho đến khi cái chấm nhỏ của chiếc đèn treo khuất sau rặng tre. Tàu đi rồi, Liên im lặng không đáp lời em. Liên lặng theo mơ tưởng. Liên nhớ về Hà Nội xa xăm. Cô so sánh cái thế giới con tàu đưa lại với thế giới cô và chị Tí, bác Siêu… đang sống cùng với đêm tối bao bọc xung quanh đất quê và đổng ruộng mênh mông, yên lặng. Cô liên tưởng đến cuộc đời của mình như chiếc đèn của chị Tí chi chiếu sáng một vùng đất nhỏ và cô thấy mình sống giữa bao nhiêu sự xa xôi…

Như vây, hai chị Liên cố thức để đợi chuyến tàu đêm ấy như bao đêm khác về từ Hà Nội cứ tưởng sẽ tìm được một lối thoát, không phải buồn chán và bế tắc nữa. Nhưng thực ra hình ảnh chuyến tàu thoáng đến thoáng đi càng làm rõ hơn, sâu hơn sự tù túng của cuộc sống phải đầy bóng tối của phố huyện đìu hiu, nghèo nàn, của những cuộc đời bé mọn, khốn khổ. Giá như không có tàu đêm đi qua, không có chút ánh sáng phù du ấy hẳn là cổ gái nhỏ bé này sẽ để khắc khoải và đỡ buồn tủi hơn nhiều. Nhưng như thế thì còn gì là cuộc dời khi cuộc sống chìm đắm trong mòn mỏi mà không có niềm vui, niềm hi vọng nào để bấu víu, hướng tới.

Phố huyện buồn với những con người đáng thương từ trẻ đến già một thời trở nên mãi mãi vì được Thạch Lam đeo vào lòng người đọc bao thế hệ.

Đọc truyện ngắn Hai đứa trẻ, hình ảnh chị em Liên cứ ám ảnh chúng ta. Bởi một lẽ, Thạch Lam đã diễn tả đời sống, tâm trạng của một lớp người trước Cách mạng tháng Tám sống buồn tủi nghèo khổ, không chút niềm vui cũng không có hi vọng, mong đợi bằng một giọng kể nhỏ nhẹ mà tinh tế, thấm sâu.

Với truyện ngắn đặc sắc này, chúng ta bắt gặp một lối kể tinh tế với giọng văn tâm tình đầy chất thơ. Phía sau cảnh vật thời gian và không gian nơi phố huyện đìu hiu ấy là một mảnh của tâm trạng, của bốn người. Nhất là tấm lòng nhân hâu, sự nhạy cảm đầy day dứt và thái độ rất mực nâng niu, tôn trọng linh hồn tạo vật và tâm hồn con người của nhà văn.