1. Ghi lại tên các bài văn xuôi là văn biểu cảm ở Ngữ văn 7 Tập một
(1) Cổng trường mờ ra.
(2) Mẹ tôi.
(3) Một thứ quà của lúa non: côm.
(4) Sài Gòn tôi yêu.
(5) Mùa xuân của tôi.
2. Bài Mùa xuân của tôi đã biểu đạt được những tình cảm đẹp, thấm nhuần tư tưởng yêu thiên nhiên, quê hương, yêu con người... của Vũ Bằng khi ở đất phương Nam vời vợi khôn nguôi mùa xuân ở Hà Nội. Nỗi nhớ này đi hoàn cảnh chia cắt đất nước thời chiến tranh chống Mĩ nên nó càng đau đáu.
Nỗi nhớ ấy được gợi tả lại bằng những nét tinh tế. Không khí xuân của đất trời: “mưa riêu riêu, gió lành lạnh, tiếng nhạc kêu trong đêm xanh”, của sinh hoạt xuân ở con người. “Có tiếng trống chèo vụng lụi từ những thôn xóm xa xa” và cụ thể hơn, gợi hơn là hình ành: “Có câu hát huê tình của con gái đẹp như thơ mộng
Không khí xuân vào nhà minh, và tác giả cho ta thấy một khung cảnh đầm ấm hạnh phúc. Cảm giác tâm linh khi sắp gặp lại ông bà tổ tiên với bàn thờ, đèn nến, nhang trầm, với tình cảm gia đình dâng lên yêu thương, thắm thiết.. Chỉ cần phân tích một đoạn văn nhỏ ở trên ta sẽ thây văn biểu cảm có mục đích:
+ Biểu đạt tình cảm, tư tưởng, cảm xúc.
+ Sự đánh giá của con người với thế giới xung quanh.
+ Khêu gợi sự đồng cảm nơi người đọc.
Bài văn trên được viết theo
- Thể loại trữ tình. Nó có thể là:
+ Thơ trữ tình.
+ Ca dao trữ tình.
+ Tùy bút.
- Tình cảm, cảm xúc trong văn biểu cảm thường là:
+ Tình cảm đẹp.
+ Gợi tình yêu thương con người, thiên nhiên, yêu quê hường, Tổ quốc.
+ Ghét những thói tầm thường, độc ác, ghét kẻ thù...
- Ngoài cách biểu cảm trực tiếp như tiếng kêu, lời than, văn biểu cảm còn sử dụng các biện pháp tự sự, miêu tả.
Đọc Mùa xuân của tôi ta thấy tác giả nhiều lúc trực tiếp biểu lộ tình cảm.
“Ấy đấy, cái mùa xuân thần thánh của tôi. nó muốn cho người ta muốn phát điên như thế đấy. Ngồi yên không chịu được. ”
[...] “Đẹp quá đi mùa xuân ơi”
Tác giả cũng dùng những câu văn miêu tả kết hợp với tự sự.
“Trên giàn hoa lí, vài con ong siêng năng đã bay đi kiếm nhị hoa. Chỉ độ tám chín giờ sáng, trên nền trời trong trong có những làn sáng hồng rung động như cánh con ve mới lột.”
3 & 4. Dùng văn miêu tả là cho ta hình dung ra sự vật, dùng văn tự sự là cho ta thây sự việc diễn tiến ra sao. Văn biểu cảm phải có sự vật, sự việc để bộc lộ cảm xúc. Do vậy phải dùng hai yếu tố này trong tác phẩm văn biểu cảm.
5. Khi muốn bày tỏ tình thương yêu, lòng ngưỡng mộ, ngợi ca (tức là muốn biểu cảm) đối với người, sự vật, hiện tượng thì chúng ta phải miêu tả, kể chuyện về người, vật, hiện tượng ấy.(Đọc lại câu số 3 và 4)
6. Ngôn ngữ văn biểu cảm đòi hỏi sử dụng rộng rãi các biện pháp tu từ như trong thơ trữ tình.
- Trong Mùa xuân của tôi, Vũ Bằng sử dụng rất nhiều biện pháp tu từ so sánh:
Tôi yêu lông mày ai như trăng mới in ngần (...)
Không uống rượu mạnh cũng như lòng mình say rượu (...)
Nhựa sống ở trong người căng lên như máu căng lên trong lộc của loài nai, như mầm non của cây cối... (ở đây hình ảnh so sánh (máu, mầm non) đã được miêu tả chi tiết gợi cảm, người ta gọi là lối “so sánh nối dài” có khả năng bộc lộ tình cảm đặc biệt)
Y như con vật nằm thu hình một nơi trốn rét (Giấu đi sự vật so sánh (chẳng hạn “Tôi y như” câu văn như là sự phát hiện những tình cảm bất ngờ của chính mình nhờ khi mùa xuân đem lại...)
Nhà văn dùng nhân hóa.
(...) Mầm non cửa cây cối, nằm im mãi không ngủ được, phủi trồi ra thành những cái lá nhỏ li ti, giơ tay vẫy những cặp uyên ương đứng cạnh.
+ Nhà văn dùng
Liệt kê đơn: (...) đào hơi phai nhưng nhụy vẫn còn phong, cỏ không xanh biếc [...] nhưng trái lại, lại nức một mùi hương man mác.
Liệt kê kép: Ai bảo được non đừng thương nước, bướm đừng thương hoa, trăng đừng thương gió, ai cấm được trai thương gái, ai cấm được mẹ yêu con, ai cấm được cô gái còn son nhớ chồng thì mới hết được người mê luyến mùa xuân
- Trong Sài Gòn tôi yêu ta cũng gặp những biện pháp lu từ trên
- Sài Gòn cứ trẻ hoài (nhân hóa) như một cây tơ đương độ nõn ncì [...]
Đây là phép liệt kê:
Tôi yêu trong nắng sớm [...] Tôi yêu thời tiết trái chứng [...]
Tô yêu cả đêm khuya [...] Tôi yêu phố phường náo động [...]
Yêu cả cái tĩnh lặng của buổi sáng tinh sương [...]
7 & 8. Dựa vào bài học, các em có thể thực hiện được yêu cầu này. Chú ý phải viết ngắn gọn cô đúc và phải phân biệt được ý (có thể dùng các kí hiệu để phân định).
VỀ VĂN NGHỊ LUẬN
1. Ghi tên các bài văn nghị luận
(1) Tình thần yêu nước của nhân dân ta
(2) Sự giàu đẹp của tiếng Việt
(3) Đức tính giản dị cửa Bác Hồ
(4) Ý nghĩa văn chương
2. Trong đời sống hằng ngày, trên báo chí thường xuất hiện văn nghị luận. Thí dụ:
- Hút thuốc là có hại cho sức khỏe.
- Hè vui tươi của thiếu nhi thành phố.
- Không xả rác bừa bãi.
Các bài trên thường yêu cầu giải thích và chứng minh.
3. Trong bài văn nghị luận phải có những yếu tố cơ bản sau:
- Luận điểm:
+ Là quan điểm của bài văn
+ Được đưa ra dưới hình thức một câu khẳng định (hoặc phủ định)
+ Nội dung phải đúng đắn, chân thực, tiêu biểu.
+ Nó thống nhất các đoạn văn thành một khôi để tạo sức thuyết phục.
- Luận cứ:
+ Là lí lẽ, dẫn chứng đưa ra làm cơ sở cho luận điểm
+ Phải chân thực, đúng đắn, tiêu biểu thì luận điểm có sức thuyết phục.
- Lập luận:
+ Là cách nêu luận cứ để dẫn đến luận điểm
+ Phải chặt chẽ, hợp lí để có sức thuyết phục.
4. Câu a) và câu b) là luận điểm bởi nội dung của nó rõ ràng, vốn để nó nêu lên là chân thực, có giá trị thực tế. Hình thức là loại câu khẳng định. Dấu hiệu này ở hai từ có và từ là
5. Câu này nói tới vai trò quan trọng của yếu tố luận cứ và lập luận
- Phải có cả lí lẽ để phân tích định hướng cho dẫn chứng về phía luận điểm.
- Phải biết sắp xếp sao cho nó mạch lạc, thống nhât với quan điểm tư tưởng của luận điểm.
Có thể viết một đoạn sau: Ca dao Việt Nam rất nổi tiếng với bài:
Trong đầm gì đẹp bằng sen
Lá xanh bông trắng lụi chen nhị vàng
Cả hai dòng đều là tiếng Việt thuần túy, không hề có một từ nào là Hán Việt- một yếu tố vốn được dùng nhiều trong thơ ca.
Hai câu thơ cho ta thấy một phong cảnh thật đẹp. Giữa bao nhiêu loài cây sống trên đầm, chỉ có hoa sen là nổi bật. Bông hoa ấy được miêu tả rất chi tiết. Nào là lá, bông, nhị, nào là xanh, trắng, vàng rất nhã mà sinh động. Chính từ chen đã cho người ta lưu ý đặc biệt cái nơi tỏa mùi hương của sen.
Chính màu sắc xanh, trắng gợi sự sống, gợi sự trong sạch, cùng với nhị vàng gợi hương thơm của sen mà chúng ta quên rằng sen đang ở trong đầm - cái nơi có mùi tanh của bùn đất.
Ngôn ngữ như vậy quả là có khả năng phô diễn sự giàu đẹp trong việc (diễn tả sự vật và đem đến những cảm giác, những ý nghĩa sâu xa lí thú
(Thái Quang Vinh)
Advertisements (Quảng cáo)
6. Hai đề này có chung nội dung "Lòng biết ơn những người đă cho ta hường thụ những thành qua hạnh phúc ngay nay” Nhưng yêu cầu về thể loại rất khác nhau.
- Đề a) là văn giải thích
- Đề b) là văn chứng minh
Ở đề a) chủ yếu là ta trả lời câu hỏi tại sao? Nghĩa là phải làm cho người ta hiểu. Phải giải thích nghĩa đen và nghĩa bóng của câu tục ngữ.
- Nghĩa đen:
+ Ăn quả là gì?
+ Nhớ là gì?
+ Kẻ trồng cây là gì?
+ Mối quan hệ giữa quả và kẻ trồng cây?
+ Lời khuyên với người ăn hay người trồng?
- Nghĩa bóng: Câu tục ngữ nói một vấn đề rất dễ nhận thức trong thực tế cuộc sống. Nói vậy để làm gì? Có ý nghĩa thực tế như thế nào?
- Có thế lập một số luận điểm,
a) Lòng biết ơn là gì?
b) Tại sao khi hưởng những thành quả người khác ta phải biết ơn?...
Ớ đề b) Chủ yếu ta trả lời câu hỏi như thế nào? Nghĩa là phải làm cho người tin. Có thể nêu một số luận điểm (xem ở câu 2, trang 51, SGK)
ĐỀ VĂN THAM KHẢO
Đề 1: Các luận điếm cần phải làm sáng rõ về lí và có dẫn chứng sinh động.
1.Thiên nhiên đem cho ta sức khỏe
2. Thiên nhiên đem lại cho ta sự hiểu biết
3. Thiên nhiên đem lại cho con người niềm vui vô tận
Đề 2: Các luận điểm đế giải thích
1.Trì, viên, điền là gì?
2. Cả câu tục ngữ nói điều gì? (đọc lại chú thích (5) SGK trang 4)
3. Tại sao lại kể theo thứ lự nhất, nhì, tam (1,2, 3)
4. Câu tục ngữ này đúng không? Tại sao?
5. Ý nghĩa của nó (Con người cần phải biết khai thác hoàn cảnh tự nhiên để tạo ra của cái, vật chất)
Đề 3: Vì sao Nguyễn Ái Quốc không để cho nhân vật Phan Bội Châu vạch tội hay thét mắng vào mặt Va-ren mà chỉ im lặng, với nụ cười ruồi thoáng qua?
+Đây là cách ứng xử của Phan Bội Châu
+ Phan đã dùng cách im lặng, phớt lờ, coi như không có Va-ren trước mặt...
+ Phan bộc lộ thái độ khinh bỉ, bản lĩnh kiên cường trước kẻ thù.
- Truyện kết thúc ở “... Va-ren không hiểu Phan Bội Châu” cũng có thể được rồi. Tác giả tiếp thu thêm một đoạn kết, trong đó có lời quả quyết của anh lính dõng An Nam đã tiếp tục nàng cấp tính cách, thái độ của Phan Bội Châu trước kẻ thù.
- Chính Va-ren đã “nghe được” sự trả lời của Phan Bội Châu vì thế cái im lặng của Phan làm cho y “sửng sốt cả người”
Đề 4: Có hai luận điểm:
1. Trong Nỗi oan hại chồng nhân vật Thị Kính chịu khổ bị ngờ oan (luận điểm phụ)
2. Nồi oan hụi chồng Thị Kính mang; nỗi nhục của một thân phận nghèo hèn bị kẻ giàu sang, tàn ác khinh rỏ.
Đề 5:
a) Trạng ngữ:
- Từ xưa đến nay trạng ngữ chỉ thời gian để nói khái niệm truyền thống có quá khứ và hiện tại.
- Mỗi khi Tổ quốc bị xâm lăng, thì tinh thần ấy lại sôi nổi trạng ngữ chỉ thời gian, nói về các thời điểm khác nhau của “Tổ quốc bị xăm lăng” và thực tế là “tinh thần ấy lại sôi nổi”
b) Trường hợp cụm c - V làm thành phần cụm từ mỗi khi Tổ quốc (chủ ngữ) bị xâm lăng (vị ngữ)
c) Câu đầu có biện pháp đảo trật tự từ trong một cụm từ làm phụ ngữ.
Đó “nồng nàn yêu nước”. Đáng lẽ: “yêu nước nồng nàn”
Sự đảo trật tự này nhằm nhấn mạnh mức độ yêu nước “nồng nàn”.
d) Trong câu cuối, tác giả dùng hình ảnh làn sóng vừa mạnh mẽ, to lớn vừa lướt qua mọi nguy hiểm. Khả năng, sức mạnh của làn sóng ấy có thể nhấn chìm tất cả lũ bán nước và cướp nước.
Hình ảnh này cụ thể đầy ấn tượng, biểu đạt đúng khái niệm trừu tượng “lòng yêu nước”.
e) Những động từ ở câu cuối đoạn văn được đặt trong thế tăng cấp, phát triển.
sôi nổi —> kết thành —> mạnh mẽ, to lớn —> lướt nhấn —> nhấn chim.
Đề 6:
a) Câu mở đoạn: “Đồng bào ta ngày nay rất xứng đúng với tổ tiên ta ngày trước. *
- Câu kết đoạn:
Những cử chỉ cao quý đó {...} lòng nồng nàn yêu nước.
b) Biện pháp liệt kê đã chứng minh rõ luận điểm cơ bản
- Nêu các tầng lớp nhân dân để làm rõ “dân ta”
- Nêu quan hệ uTừ... đến ” để nói rõ khái niệm “truyền thống”
a) Đây là lối liệt kê cặp. Việc liên kết này đã tạo nên ý nghĩa cho hai tiếng “kết thành” và tạo nên những đợt sóng càng lúc càng mạnh để lướt qua mọi sự nguy hiểm, nhấn chìm tất cả lũ bán nước vù cưâp nước.
b) Viết đoạn văn có dùng ba lần mô hình “Từ.... đến "
Từ phong trào quyên góp những cuốn sách giáo khoa cho đến việc đóng thùng những bộ quần áo không còn dùng để gửi.
Cấu tạo của cụm c - V này là một câu bị động nhằm đối lập với tinh thần yêu nước “sôi nổi” một cách chủ động.
Các bạn nhỏ ở những vùng xưa kia là căn cứ địa cách mạng, từ những việc thăm nom chăm sóc cho đến xây dựng những căn nhà tình nghĩa với các bà mẹ Việt Nam anh hùng, từ những cuộc hành hương về nguồn đến việc tìm hiểu lịch sử ở nơi địa đạo Củ Chi... Tất cả đó là những biểu hiện của lòng biết ơn theo đạo lí “Ăn quả nhớ kẻ trồng cây” của dân tộc ta.
Đề 7:
a) - Câu văn thứ nhất nêu luận điểm:
Tiếng Việt có những đặc sắc của một thứ tiếng đẹp, một thứ tiếng hay
- Hai câu sau làm nhiệm vụ giải thích cho luận điểm. Chúng mở đầu bằng:
Nói thế có nghĩa là nói rằng
Nói thế cũng có nghĩa là nói rằng
b) Khái niệm đẹp của tiếng Việt được tác giả lưu ý:
+ Hài hòa về mặt âm hưởng, thanh điệu.
+ Tế nhị, uyển chuyển trong cách đặt câu khái niệm hay của tiếng Việt.
+ Có đủ khả năng để diễn đạt tình cảm tư tưởng của người Việt Nam
+ Nó thỏa mãn cho yêu cầu của đời sông văn hóa nước nhà qua các thời kì lịch sử.
- Thực ra, tác giả không có ý định phân biệt rạch ròi cái đẹp, cái hay mà chỉ nhấn mạnh hai phương diện ấy.
- Cái đẹp và hay của ngôn ngữ tiếng Việt có quan hệ qua lại với nhau. Đã đẹp là phải hay và ngược lại. Cái đẹp của một ngôn ngữ là khả năng gợi cảm xúc, chủ yếu được tạo nên bởi hệ thống ngữ âm, sự hài hòa về thanh điệu và nhịp điệu.
- Cái hay chủ yếu là ở khả năng diễn tả tư tưởng tình cảm phản ánh đời sống phong phú tinh tế, chính xác.
Đề 8: Lựa chọn câu đúng trong các bài tập sau:
a) Trong văn nghị luận có thế có yếu tố miêu tả, kể chuyện hay trữ tình nhưng các yếu tố ấy không giữ vai trò quan trọng.
b) Trong tác phẩm trữ tình thì tình cảm, thái độ của tác giả được thể hiện qua bức tranh thiên nhiên và đời sông con người.
c) Bài văn nghị luận nào cũng phải có luận điểm cơ bản nhưng không nhất thiết phải có hệ thông luận điểm chi tiết.