Trang chủ Lớp 9 Ngữ văn lớp 9 Bài 2: Phân tích nhân vật Vũ Nương trong tác phẩm Chuyện...

Bài 2: Phân tích nhân vật Vũ Nương trong tác phẩm Chuyện người con gái Nam Xương của Nguyễn Dữ...

Chuyện người con gái nam xương – Nguyễn Dữ – Bài 2: Phân tích nhân vật Vũ Nương trong tác phẩm Chuyện người con gái Nam Xương của Nguyễn Dữ.. Chuyện người con gái Nam Xương được rút trong tập những câu chuyện kỳ lạ đó. Toàn bộ câu chuyện xoay quanh cuộc đời và số phận bi thảm của người con gái xinh đẹp, nết na tên là Vũ Thị Thiết quê ở Nam Xương.

Trong văn hoc Việt Nam đã có không ít tác phẩm mang tên gọi truyền kì hoặc có tính chất truyền kỳ song được tôn vinh là thiên cổ kì bút thì cho đến nay chi có một Truyền kì mạn lục của tác giả Nguyễn Dữ. Không chỉ vì tác giả Truyền kì mạn lục đã phát huy công năng của thể loại một cách thần tình; mà có lẽ quan trọng hơn: bút lực của ông rất già dặn, vừa thông minh, tài hoa lại vừa giàu tính nhân đạo.

Chuyện người con gái Nam Xương được rút trong tập những câu chuyện kỳ lạ đó. Toàn bộ câu chuyện xoay quanh cuộc đời và số phận bi thảm của người con gái xinh đẹp, nết na tên là Vũ Thị Thiết quê ở Nam Xương. Nguyễn Dữ không chú trọng việc miêu tả hình thức, chúng ta chỉ biết Vũ Xương là người tính đã thùy mị nết na lại thêm có tư dung tốt đẹp. Tính cách nhân vật được thể hiện qua hai mối quan hệ cơ bản là quan hệ với chồng và mẹ chồng. Mối quan hệ đó diễn ra ở những thời điểm khác nhau, ở từng thời điểm, nhân vật bộc lộ cá tính của mình một cách cụ thể. Mối quan hệ với Trương Sinh diễn ra qua bốn thời điểm: khi chồng ở nhà, khi chia tay chồng đi lính, khi xa chồng và khi chồng trở về. Trong những ngày chung sống với nhau, biết Trương Sinh là người có tính đa nghi, đối với vợ phòng ngừa quá sức nên Vũ Nương luôn giữ gìn khuôn phép, không từng để lúc nào vợ chồng phải đến thất hòa. Khi tiễn chồng đi lính, tính cách của Vũ Nương được thể hiện ở lời đưa tiễn. Nàng nói với chồng: Chàng đi chuyến này, thiếp chẳng dám mong đeo được ấn phong hầu, mặc áo gấm trở về quê cũ, chỉ xin ngày về mang theo được hai chữ bình yên, thế là đủ rồi. Chỉ e việc quân khó liệu, thế giặc khôn lường. Giặc cuồng còn lẩn lút, quân triều còn gian lao, rồi thế chẻ tre chưa có, mà mùa dưa chín đã quá kì, khiến cho tiện thiếp băn khoăn, mẹ hiền lo lắng. Nhìn trăng soi thành cũ, lại sửa soạn áo ra gửi người ải xa, trông liễu rủ bãi hoang, lại thổn thức tâm tình, thương người đất thú! Dù có thư tín nghìn hàng, cũng sợ không có cánh hồng bay bổng. Từ cách nói đến nội dung của những câu nói hiện lên một Vũ Nương dịu dàng, thiết tha với hạnh phúc, không hư danh, thương chồng và giàu lòng vị tha, một tâm hồn có văn hóa. Những ngày chồng đi xa, nàng thực sự là một người mẹ hiền, dâu thảo, chăm sóc thuốc thang tận tình khi mẹ chồng đau yếu, ma chay tế lễ chu tất khi mẹ chồng qua đời. Nguyễn Dữ đã đặt những lời ca ngợi đẹp đẽ nhất về Vũ Nương vào miệng của chính mẹ chồng nàng khiến nó trở nên vô cùng ý nghĩa: Ngắn dài có số, tươi héo bởi trời. Mẹ không phải không muốn đợi chồng con về, mà không gắng ăn miếng cơm miếng cháo đặng cùng vui sum họp. Song, lòng tham vô cùng mà vận trời khó tránh. Nước hết chuông rền, số cùng khí kiệt. Một tấm thân tàn, nguy trong sớm tối, việc sống chết không khỏi phiền đến con. Chồng con nơi xa xôi chưa biết sống chết thế nào, không thể về đền ơn được. Sau này, trời xét lòng, ban cho phúc đức, giống dòng tốt tươi, con cháu đông đàn, xanh kia quyết chẳng phụ con, cũng như con đã chẳng phụ mẹ. Người thiếu phụ tận tuỵ, hiếu nghĩa ấy còn là một người vợ thủy chung đối với chồng. Trong suốt ba năm chồng đi chinh chiến, người thiếu phụ trẻ trung xinh đẹp đó một lòng một dạ chờ chồng, nuôi con, mặc cho khi bướm lượn đầy vườn hay lúc mây che kín núi vẫn một mực chung thủy, sắt son với chồng. Dưới ngòi bút của Nguyễn Dữ, Vũ Nương được mọi người yêu mến bởi tính tình, phẩm hạnh của nàng. Trong cái nhìn nâng niu trân trong của ông, Vũ Nương là người phụ nữ của gia đình. Đức hạnh của nàng là đức hạnh của một người vợ hiền, dâu thảo, một người yêu mến cuộc sống gia đình và làm mọi việc để giữ gìn, vun vén cho hạnh phúc gia đình.

Người phụ nữ dịu dàng, hiếu nghĩa tận tụy và chung tình đó đáng ra phải được đền bù xứng đáng bằng một gia đình êm ấm, hạnh phúc. Nhưng đau đớn thay, một ngày kia chồng nàng trở về, nghe lời con trẻ đinh ninh là vợ có tình nhân, mắng nhiếc, đánh đập và đuổi nàng đi bất chấp sự can ngăn của họ hàng, làng xóm và lời than rớm máu của người vợ trẻ: Thiếp vốn là con nhà kẻ khổ, được nương tựa nhà giàu. Sum hợp chưa thỏa tình chăn gối, chia phôi vì động việc lửa binh. Cách biệt ba năm giữ gìn một tiết. Tô son điểm phấn từng đã nguôi lạnh, ngõ liễu tường hoa chưa hề bén gót. Đâu có sự mất nết hư thân như lời chàng nói. Nhưng Vũ Nương càng thanh minh thì mối nghi ngờ của Trương Sinh cảng lớn. Vũ Nương đã phải bất đắc dĩ nói: Thiếp sở dĩ nương tựa vào chàng sở dĩ có cái thú vui nghi gia thất. Nay đã bình rơi trâm gãy, mây tạnh mưa tan, sen rũ trong ao, liễu tàn trước gió; khóc bông tuyết hoa rụng cuống, kêu xuân cái én lìa đàn, nước thẳm buồm xa, đâu còn có thể lên núi vọng phu  kia nữa. Với trái tim tan nát, tuyệt vọng, Vũ Nương đã tìm đến cái chết. Đến bến Hoàng Giang, người thiếu phụ đau khổ nguyền rằng: Kẻ bạc mệnh này duyên phận hẩm hiu, chồng con ruồng bỏ, điều đâu bay buộc, tiếng chịu nhuốc nhơ, thần sông có linh, xin ngài chứng giám. Thiếp nếu đoan trang giữ tiết, trinh bạch gìn lòng, vào nước xin làm ngọc Mị Nương, xuống đất xin làm cỏ Ngu mĩ. Nhược bằng lòng chim dạ cá. lừa chồng dối con, dưới xin làm mồi cho cá tôm, trên xin làm cơm cho diều quạ. và xin chịu khắp mọi người phỉ nhổ. Với nàng, cái chết là hành động quyết liệt cuối cùng cần phải có để bảo toàn danh dự. Nhịp văn dồn dập, lời văn thống thiết như cực tả nỗi niềm đồng cảm, xót thương của tác giả đối với người thiếu phụ chung tình mà bạc mệnh! Thương Vũ Nương, thương cho số phận của những người phụ nữ đẹp người, đẹp nết mà chịu bất hạnh, Nguyên Dữ đã sáng tạo ra một thế giới thần tiên êm đềm trong chốn làng mây cung nước để Vũ Nương được sống như một nàng tiên. Nhà văn cũng đã tạo ra một cuộc gặp gỡ kì thú giữa Phan Lang – một người dương thế – với Vũ Nương nơi động tiên. Cuộc gặp gỡ ấy đã làm sáng tỏ thêm những phẩm chất của Vũ Nương. Khi Phan Lang nhắc đến chuyện nhà cửa tổ tiên thì Vũ Nương ứa nước mắt khóc. Tính cách của nàng và bi kịch như được tô đậm khơi sâu một lần nữa. Nhưng dụng ý của nhà văn đưa phần truyền kì vào câu chuyện không chỉ có thế. Nguyễn Dữ muốn khẳng định một chân lí nghệ thuật: cái đẹp là bất hủ. Vũ Nương không sống được ở cõi đời thì sẽ sống vĩnh hàng ở cõi tiên, vì nàng hiện thân cho cái đẹp.

Câu chuyện về nàng Vũ Nương khép lại nhưng vấn đề mà Chuyện người con gái Nam Xương đặt ra là vấn đề có tính khái quát giàu ý nghĩa nhân văn. Phía sau tấn bi kịch của Vũ Nương có một cuộc chinh chiến, loạn li, gây cách biệt, nhưng căn bản là lễ giáo phong kiến hà khắc với tư tưởng nam quyền độc đoán đã biến Trương Sinh thành một bạo chúa gia đình… Để ngàn đời trên bến Hoàng Giang, khắc khoải niềm thương và nỗi ám ảnh dai dẳng về một người thiếu phụ trẻ trung, xinh đẹp, hiếu nghĩa, chung tình mà bạc mệnh. Đó là tất cả ý nghĩa mà chúng ta có thể cảm nhận được từ Chuyện người con gái Nam Xương.

Advertisements (Quảng cáo)