Truyện Kiều của thi hào dân tộc Nguyễn Du là một công trình nghệ thuật bằng thơ lục bát chứa chan tinh thần nhân đạo. Thiên diễm tình của "người quốc sắc, kẻ thiên tài với bao tình tiết đẹp đẽ, cảm động gieo vào lòng ta bao ấn tượng khó phai mờ. Có không ít vần thơ, câu thơ tả cảnh lung linh sắc màu chẳng khác nào mảnh trời xanh rủ bóng xuống hồn ta trên những nẻo đường nắng lửa. Thiên nhiên trong Truyện Kiều đẹp lắm, đọc qua một lần đâu dễ quên? Và đây là hai câu Kiều cho ta nhiều thú vị văn chương:
... Dưới cầu nước chảy trong veo,
Bên cầu tơ liễu bóng chiều thướt tha.
Cái buổi chiều tà Thanh minh ấy, hình ảnh “hai Kiều e lệ nép vào dưới hoa” đã làm cho Kim Trọng hào hoa “chập chờn cơn tỉnh cơn mê’... Cuộc chia tay không một lời hẹn ước mà sao đằm thắm nghĩa tình? “Cái thuở ban đầu lưu luyến ấy’ (Thế Lữ) đã được thi hào Nguyễn Du ghi lại một cách thần tình:
Bóng tà như giục cơn buồn,
Khách đà lên ngựa, người còn nghé theo... ”
Rất tế nhị và thanh tao, cái giây phút rạo rực trái tim Kim - Kiều dự cảm một tình yêu đắm say chớm nở, khiến Nguyễn Du đồng cảm viết nên những vần thơ tình tuyệt bút.
Cuộc chia tay trong hội đạp thanh đâu dễ quên? Bút pháp tả cảnh ngụ tình của Nguyễn Du nâng cao cảm xúc nghệ thuật. Thời gian trôi nhanh, không gian trở nên trong sáng, tĩnh lặng. Hình ảnh chọn lọc, cụ thể nhưng xiết bao gợi cảm: chiếc cầu nho nhỏ xinh xinh, dòng nước trong veo lững lờ, cành liễu thiết tha trong bóng chiều nhạt... Cành đơn sơ mà xinh xắn như bức tranh thủy mạc - chứng nhân cho một mối tình đẹp đang nảy nở.
Cảnh vật đẹp và thơ mộng quá! Thiên nhiên như mang nặng tình người. Dòng nước trong veo chảy dưới cầu như tình cảm trong sáng của lòng người. Nhà thơ không hề nói đến gió mà có gió thổi:
Bên cầu tơ liễu bóng chiều thướt tha
Hình ảnh ẩn dụ "tơ liễu” và từ láy “thướt tha” gợi tả lá liễu, cành liễu dài và mém bay trước làn gió nhẹ, mang theo bao tình ý xôn xao. Ngoại cảnh hòa nhập rong tâm cảnh, biểu hiện nỗi lòng bâng khuâng xao xuyến, thiết tha của Thúy Kiều và Kim Trọng.
Hai câu thơ lục bát được viết theo cấu trúc “bình đối” không gian hai chiều: “dưới cầu” và “bên cầu”, có màu xanh “trong veo” của dòng nước chảy, có dáng “tơ liễu” bay “thướt tha” trong bóng chiều xuân, cảnh vật cân xứng, hài hòa và rất hữu tình. Hai câu thơ lục bát tả cảnh đẹp như một bức tranh của một danh họa được vẽ bằng những đường nét tinh tế, tươi tắn, gam màu nhẹ hòa hợp tạo cảm xúc thơ mộng: màu xanh của dòng nước trong veo, màu vàng nhạt của bóng chiều tà mùa xuân, màu xanh lục của liễu, đường nét của “dịp cầu nho nhỏ cuối ghềnh bắc ngang”, của dòng nước “nao nao” uốn lượn quanh co... Ngòi bút của thi nhân tả ít mà gợi nhiều. Cảnh vật thanh tao, sống động, ấp ủ hồn người. Ngoại cảnh như đang xao xuyến rung động trước nỗi niềm bâng khuâng, man mác của lứa đôi. Cảnh vật in dấu tâm sự và tình cảm; một tình yêu đẹp mới chớm nở trong lòng “người quốc sắc, kẻ thiên tài”.
Trong Truyện Kiều, tả cảnh cũng như tả người, Nguyễn Du vận dụng sáng tạo thi pháp cổ truyền thống, tả ít mà gợi nhiều. Chỉ một vài nét chấm phá mà nhà thơ vẽ lên một bức tranh thiên nhiên chứa chan thi vị. Bao trùm lên tất cả là bút pháp ước lệ tượng trưng. Người thì ngư, tiểu, canh, mục. Canh thì có phong, hoa, tuyết, nguyệt. Cỏ cây hoa lá thì sen, cúc, trúc, mai vv... Tuy nhiên, thi hào với ngòi bút thiên tài và tâm hồn nghệ sĩ đã để lại ở câu thơ, vần thơ những dấu ấn đậm đà.
Đọc Truyện Kiều, ta nhớ mãi bức tranh tứ bình về trăng, hoa, gió, tuyết:
Đòi phen gió tựa, hoa kề
Nửa rèm tuyết ngậm, bốn bề trăng thâu.
Ta quên sao được sự chuyển vần của bốn mùa trong nỗi buồn đau nặng trĩu lòng người:
Sen tàn cúc lại nở hoa,
Sầu dài ngày ngắn đông đà sang xuân.
Thiên nhiên trong Truyện Kiều rất đỗi quen thuộc với tâm hồn con người Việt Nam. Nhà thơ như một họa sĩ tài ba, phối sắc, tạo hình, dựng cảnh... đều thần tình, đem đến cho người đọc nhiều rung cảm. Mùa xuân với "Cỏ non xanh tận chân trời- Cành lê trắng điểm một vài bông hoa”. Mùa hè với tiếng chim quyên và hoa lựu đỏ:
Advertisements (Quảng cáo)
Dưới trăng quyên đã gọi hè,
Đầu tường lửa lựu lập lòe đơm bông.
Mùa thu với sắc màu rực rỡ:
Long lanh đáy nước in trời,
Thành xây khói biếc non phơi bóng vàng.
Những hình ảnh “Cát vàng cồn nọ, bụi hồng dặm kia”, những nhánh liễu mềm "Lơ thơ tơ liễu buông mành”, những con đường "Lối mòn cỏ nhợt màu sương”... ta vẫn thấy quanh ta, thân thiết, gần gũi. Ta vốn mê say mảnh trăng xứ sở trong ca dao, dân ca, cho nên ta yêu thêm vầng trăng ly biệt trong Truyện Kiều.
Vầng trăng ai xẻ làm đôi,
Nửa in gối chiếc, nửa soi dặm trường.
Có lúc thi hào dựa vào thi liệu cổ Trung Hoa rồi chắt lọc, tái tạo, câu thơ Kiều trở nên cổ kính, trang nhã, cảnh sắc lại đậm đà một hồn quê:
Hoa đào năm ngoái còn cười gió đông
Nguyễn Du đã từng nói: “Cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu - Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ”. Thiên nhiên trong Truyện Kiều không chỉ là cái nền, cái khung cảnh cho nhân vật, mà còn biểu hiện tâm trạng nhân vật. Ngoại cảnh hòa hợp với tâm cảnh. Tám câu thơ tả cảnh “Trước lầu Ngưng Bích” là những vần thơ tả cảnh ngụ tình tuyệt diêu. Mỗi từ ngữ, mỗi hình ảnh miêu tả thiên nhiên trong đoạn thơ đồng thời là một ẩn dụ về tâm trạng và một hoán dụ về số phận người thiếu nữ tài sắc bạc mệnh:
... Buồn trông ngọn nước mới sa,
Hoa trôi man mác biết là về đâu?
Nguyễn Du đã dành cho thiên nhiên một tình yêu nồng hậu với tất cả trái tim đa cảm của người nghệ sĩ thiên tài. Thi hào có biệt tài nắm bắt được cái “thần” tiêu biểu nhất của mỗi cảnh vật riêng biệt, và chỉ vài nét phác họa, bức tranh thiên nhiên hiện ra hữu tình, hấp dẫn kỳ lạ:
Song sa vò võ phương trời,
Nay hoàng hôn đã lại mai hôn hoàng.
Trong Truyện Kiều, thiên nhiên cũng là một “nhân vật” trữ tình. Mỗi lần thiên nhiên xuất hiện, câu thơ trở nên lung linh, huyền diệu. Nó phản ánh một hồn thơ tuyệt đẹp, một nghệ thuật tả cảnh điêu luyện vô song. Đẹp thay những câu thơ Kiều nói về thiên nhiên. Qua những câu thơ ấy, ta yêu thêm tiếng Việt và thơ ca dân tộc. Đến với những vần thơ Kiều, tâm hồn người đọc rộng mở, thắm tươi mãi tình yêu tạo vật, yêu cảnh sắc bốn mùa của đất nước quê hương:
Nguyễn Du viết Kiều đất nước hóa thành văn
(Chế Lan Viên)