Bông hồng vàng và bình minh mưa của K. Pau-xtốp-xki (NXB Văn học, 2003) “không phải là một công trình nghiên cứu lí thuyết”, “đó là những ghi chép về quan niệm của tôi (nhà văn) đối với nghề văn và kinh nghiệm viết văn của tôi”. Ngoài ra, tác phẩm còn bao gồm những truyện ngắn đặc sắc của tác giả.
Bông hồng vàng và bình minh mưa của K. Pau-xtốp-xki được mở đầu bằng câu nói nổi tiếng của nhà văn Sê-đờ-rin: “Văn học nằm ngoài mọi định luật của băng hoại. Chỉ mình nó không thừa nhận cái chết”. Đó là một chân lí sâu sắc, lí giải cho sự tồn tại hàng vạn năm không phai dấu của những tác phẩm văn học cổ. Chọn điểm xuất phát cho cuốn sách của mình như vậy, Pau-xtốp-xki lần lượt trình bày những quan niệm về nghề văn của mình thông qua những tình huống truyện nho nhỏ rồi ngay sau đó trực tiếp phát biểu những ý niệm sâu sắc, đầy tính triết lí. Đó là câu chuyện “Bụi quý” kể về bông hồng vàng mà anh thợ quét rác thành Pa-ri Sa-mét đã chắt chiu gom nhặt từ vô vàn những hạt bụi.vàng li ti nằm lẫn trong đống rác thải của những tiệm kim hoàn. Bông hồng vàng anh muốn mang tặng cô gái mà anh yêu mến. Bông hồng vàng được chiết ra từ những giọt máu, giọt tâm hổn tội nghiệp mà cao thượng của anh. Từ hình ảnh bông hồng vàng được tinh luyện ấy, nhà văn nghĩ: “Bông hồng vàng của Sa-mét! Đối với tôi có phần nào là hình tượng tương lai của hoạt động sáng tạo của chúng ta”. Nói vậy bởi nhà văn cũng phải chắt chiu, chọn lọc vốn sống, ngôn từ... giống như anh chàng Sa-mét phải gom góp chắt chiu những hạt bụi vàng lấm tấm từ khi chúng còn là những hạt bụi vô danh vô giá trị để tạo thành một bông hồng vàng có một quyền năng tuyệt vời “mang lại hạnh phúc cho bất kì ai có được nó”. Hay câu chuyện về “Chữ đề trên tảng phiêu nham”. Một làng chài bình thường nằm sát ven biển, ngày đêm ầm ì nghe tiếng sóng; những người dân bình dị, mộc mạc... có thể nói cái làng chài ấy tiêu sơ, hoang vắng như bất kì một cái làng nghèo khó nào chúng ta bắt gặp chốn thôn quê. Nhưng ở chính cái làng ấy, bên bờ biển, có một tảng phiêu nham đề những chữ thế này: “Để tưởng niệm những ai đã bỏ mình và sẽ bỏ mình trên biển cả”. Những con chữ bình dị thôi nhưng nếu ngẫm kĩ người ta sẽ giật mình vì ý tưởng của nó. “Để tưỏng niệm những ai đã bỏ mình trên biển cả”, nếu dòng chữ là như vậy nó đã gợi nỗi tiếc thương, niềm đau xót cho số phận những thuỷ thủ, những thuyền trưởng đã bất hạnh mà bỏ mình trên chuyến “Biển đêm” (V. Huy-gô). Nhưng ở đây, tảng đá còn là “Để tưởng niệm những ai sẽ bỏ mình trên biển cả” thì điều đó không bình thường nữa rồi. Con người nơi đây sẵn sàng đối mặt với hi sinh, tưởng niệm cho cả cái chết có thể sẽ đến với chính mình trong một ngày sắp tới. Đó là tư thế của những con người anh dũng, quả cảm thấu suốt cả tương lai, dù tương lai đó có thể là cái chết và bình tĩnh đón đợi nó. Và bởi tinh thần của con người mà dòng chữ ấy gợi nên, Pau-xtôp-xki thốt lên: “Đôi với tôi, hàng chữ ấy có nghĩa đại khái như thê này: "Để tưởng niệm những ai đã thắng và sẽ thắng biển này”... Giá trị của lao động nóí chung và công việc viết văn nói riêng đã được Pau-xtôp-xki chiêm nghiệm, suy tưởng từ những câu chuyện, những tình huống như vậy. Nếu muốn bàn về nghệ thuật của cách viết thì ta cần thấy rằng thể hiện những vấn đề về lí luận dưới dạng những câu chuyện, những sự việc có tình huống sẽ khiến những vấn đề đó cụ thể, tránh khô khan nếu không muốn nói là hấp dẫn. Nhưng điều cốt lõi là tư tưởng về hoạt động sáng tạo - dù là sáng tạo điều gì đi chăng nữa - của con người trong quan niệm của nhà văn. Đó là những tư tưởng sâu sắc, tiến bộ, thôi thúc con người tiến bước trên con đường khổ luyện cùa mình.
Những giá trị của văn học được nhà văn cụ thể hơn trong những sáng tác của mình. Hãy đọc những “Bình minh mưa”, “Chiếc nhẫn bằng thép”, “Lẵng quả thông”, “Âm nhạc Véc-đi”, “Tuyết”, “Chú bé chăn bò”... để cảm nhận được những tâm hồn Nga nồng hậu, thuần khiết, luôn biết vươn lên khỏi những nỗi đau mà hoàn cảnh dội xuống. Đó là nàng Ta-chi-a-na phúc hậu, bao dung con người biết im lặng trước sự nhầm lẫn cùa chàng lính Ni- kô-lai vì không muốn tước đi niềm hi vọng cuối cùng trong cuộc sống của chàng. Là cô gái Xôn-xe-va và những người chiến sĩ trên chiến trường, họ đã biết sống trong sự đồng cảm để nâng đỡ nhau giữa nỗi đau tưởng như lên đến tột cùng. Đó còn là chú bé chăn bò Ku-đư-skin với niềm tin vào những chiếc chai thư được thả lênh đênh trên đại dương bão tố..
Đọc những trang truyện Pau-xtốp-xki ta càng thấm thía hơn hình ảnh những con búp bê gỗ Ma-tri-ôs-ka: con lớn lồng vào con nhỏ, con nhỏ lổng vào con nhỏ hơn nữa... cứ thế, cứ thế... Những con người Nga nhân hậu, bao dung họ ôm ấp, yêu thương nhau trong tình yêu thương của những người thân, những người hàng xóm, láng giềng, và thậm chí là của những người gặp nhau lần dầu tiên trong đời. Đó còn là hình ảnh con lật đật Nga không bao giờ gục ngã. Dừ ta xoay chuyển, vần quay thế nào, chú lật đật vẫn bật dậy mỉm cười và cất tiếng reo vui... “Bình minh mưa” của cuổn sách đã đưa ta đến thế giới của những tâm hồn Nga, “tính cách Nga” lạc quan, yêu đời, hốn hậu. Ta học được từ đó những bài học ý nghĩa vô cùng cho sự sống. Có phải chính bởi những điều như vậy mà văn học mang đến cho cuộc đời này nên nó “nằm ngoài mọi định luật băng hoại”?
Advertisements (Quảng cáo)
Còn quá nhiều điều không thể nói hết về “Bông hồng vàng và bình minh mưa” của K. Pau-xtốp-xki. Một vài dòng chữ bé nhỏ, giản dị có đủ để nói về một cuốn sách sẽ “không thừa nhận cái chết” để sống với muôn đời?