Bài làm
Trước nay, mục tiêu chủ yếu của nước ta vẫn là tăng trưởng kinh tế để nhanh chóng đưa đất nước ra khỏi cảnh đói nghèo. Nhưng một khi đã thoát nghèo, thậm chí một bộ phận xã hội lại rất giàu, thì cần phải nghiêm túc bảo vệ môi trường chứ không chỉ nói suông. Môi trường bao gồm các yếu tố tự nhiên và vật chất nhân tạo bao quanh con người, có ảnh hưởng đến đời sống, sản xuất, sự tồn tại, phát triển con người và sinh vật. Các nhà khoa học từ lâu đã cảnh báo Việt Nam đang phải đương đầu với các vấn đề về môi trường như nạn phá rừng, khai thác quá mức tài nguyên sinh học, tài nguyên đất xuống cấp, thiếu nguồn nước ngọt trong khi ô nhiễm ngày càng tăng, dân số tăng nhanh dẫn đến đói nghèo. Cảnh báo trên, ít nhiều được một số người có trách nhiệm quan tâm nhưng do các nguyên nhân khách quan và chủ quan, các chủ trương chính sách và các biện pháp đưa ra không đáp ứng được yêu cầu của cuộc sống làm cho chất lượng sống của người dân thực sự đã vào mức báo động đỏ. Đã đến lúc Việt Nam nên đặt lại mục tiêu phát triển cho đúng đắn hơn.
Một vài ví dụ để minh chứng: Lúc trước, ta tạm chấp nhận hi sinh một con sông để một nhà máy xả nước thải chưa qua xử li đổ ra sông này, để giúp địa phương thu thêm thuế, GDP được tăng lên. Bây giờ thì phải biết quý .trọng nguồn nước. Khá nhiều sông rạch ở ngoại thành TPHCM không còn thủy sản, dân không dám dùng nước dù là để tắm rửa, thậm chí tàu nước ngoài (Nhật Bản, Singapore) tẩy chay không vào sông Thị Vải vì sợ ô nhiễm làm hư hại vỏ tàu. Rõ ràng các trường hợp này là lợi hoàn toàn bất cập hại, dù các nhà máy có tăng nguồn ngân sách cho ta bao nhiêu chăng nữa. Lúc trước, ta tạm chấp nhận hi sinh một khoảnh môi trường, một cộng đồng nghèo khó để một công ty đặt nhà máy phá dỡ tàu biển với cùng mục đích giúp chính quyền có thêm thuế, GDP được tăng lên. Bảy giờ phải nhất quyết chống lại ô nhiễm chất thải độc hại vốn rất tốn kém đế xử lí, mà không xử lý thì hậu quả có thể kéo dài trong nhiều thế hệ con người. Cái giá cho tương lai như vậy là quá đắt.
Khi xưa, ta tạm cho nhập khẩu thiết bị second-hand để sử dụng trong khi còn nghèo khó. Kết quả là một sô’ lớn máy vi tính cũ, tuy rẻ nhưng thật ra dùng chẳng được bao lâu, lại thải ra nhiều chất độc hại khi thanh lí. Tác động như trên cho thấy tiết kiệm không bao nhiêu và chỉ giúp một thành phần nhỏ trong xã hội mà tác hại thì lan rộng. Cái giá cho tương lai như vậy là quá đắt.
Thế nào là chất thải độc hại? cần hiểu rằng trong các chất thải, thì chất thải độc hại là đáng sợ nhất, tác động về lâu dài và tương tác lẫn nhau. Đặc tính “lâu dài” thì ai cũng hiểu nhưng khó lường trước cho xác thực, làm sao biết xỉ từ việc phá dỡ tàu biển bao năm nữa sẽ gây tác hại, và tác hại bao lâu? 20 năm hay 50 năm? Đặc tính “tương tác” thì chúng ta càng mù mờ hơn nữa.
Nếu lấy một mẫu nước thử nghiệm, ta thấy mỗi chất độc hại đều nằm dưới tiêu chuẩn cho phép thì đừng vội mừng. Có dăm bảy chất độc hại đều nằm dưới tiêu chuẩn cho phép thì còn tạm chấp nhận được. Có đến vài chục chất độc hại, mỗi chất tuy nằm dưới tiêu chuẩn cho phép nhưng lại tương tác với nhau gây hiệu ứng độc hại như thế nào thì ta không thể lường được.
Ví dụ về sự tương tác, theo tiêu chuẩn thì chất A chỉ gây hại từ mức 0,5 mg/l trở lên, và chất B cũng thế. Như vậy, nếu một mẫu nước chứa 0,5 mg/1 chất A và 0,5 mg/1 chất B thì là vô hại chăng? Chưa chắc! Tiêu chuẩn trên chỉ xét từng trường hợp đơn lẻ của chất A và chất B chứ không tính đến sự hiện diện của cả hai chất. Khi hiện diện cùng nhau thì mức gây hại của một chất đặc thù có thể bắt đầu sớm hơn dù ở hàm lượng nhỏ hơn. Thật ra, vấn đề này không có gì mới. Từ ngày xưa đến giờ, trong ngành dược đều nói đến việc cấm kỵ dùng một loại thuốc X cùng với một loại thuốc Y nào đó, nhưng dùng hai loại thuốc riêng rẽ, vào những lúc khác nhau thì lại tốt cho con bệnh.
Trong thập niên 1980, người ta tìm ra hàng trăm chất độc hại trong con sông này, mỗi chất đều nằm dưới tiêu chuẩn cho phép của nước uống, nhiều chất có hàm lượng rất nhỏ (nhỏ hơn microgram, tức phần triệu của gram) mà nhờ phương tiện phân tích cải tiến hiện đại nhất mới phát hiện được. Trước đó, danh sách các chất phát hiện được còn ngăn nên người ta an tâm. Bây giờ, vấn đề đặt ra cho các nhà khoa học là với hàng trăm chất độc hại cùng hiện diện tuy rằng ở hàm lượng rất nhỏ như thế thì tầm mức độc hại tương tác là như thế nào? Ngav một nước tiên tiến như Canada còn chưa dám trả lời! Riêng các nhà khoa học Canada cũng bày tỏ e ngại khi họ phải uống nước từ nguồn sông Ottawa! Từ đó đến nay, các nghiên cứu thêm vẫn chưa đưa ra lời giải đáp cụ thể vì phải xem xét hàng nghìn mối tương tác khác nhau!
Nghiên cứu như thế là quá tốn kém, thậm chí vượt quá nguồn lực một nước giàu có như Canada! Thế là người ta thờ thẫn giá biết thế thì đã ngăn chặn ô nhiễm ngay từ đầu, chứ bây giờ nghiên cứu tầm mức độc hại do ô nhiễm thì là “nhiệm vụ bất khả thi!” Tiếc thay lịch sử lại không có 2 từ “giá như”.
Lời thở than còn nghiêm trọng hơn với trường hợp Ngũ Đại hồ (Great Lakes) nằm giữa Canada và Mỹ, là nguồn nước uống cho 2/3 dân số Canada và hàng triệu người Mỹ. Điều không may là năm hồ vĩ đại này cũng tiếp nhận chất thải độc hại thải ra từ vô số các nhà máy nằm dọc ven bờ nằm hồ này. Người ta đã phân tích được hơn 800 chất độc hại trong nước của năm hồ, nhiều chất trong số này được biết đã gây ung thư cho loài vật thí nghiệm.
Vấn nạn vẫn thế, chưa có chất nào vượt tiêu chuẩn nước uống cho phép, nhiều chất có hàm lượng rất nhỏ, nhưng mô’i tương tác của hơn 800 chất độc hại này cộng lại với nhau đến đâu thì ngay cả các nhà khoa học chuyên ngành cũng chưa đánh giá hết được. Huống chi ở Việt Nam, đặc biệt ở các thành phô’ lớn và các khu công nghiệp, nguồn nước, lớp đất ở nhiều nơi đang chứa chất, độc hại vượt mức cho phép nhiều lần, hỏi rằng tác hại sẽ đến bao nhiêu đối với con người!
Bảo vệ tài nguyên nước: Một số nơi hiện nay, nước tuy bị ô nhiễm nhưng vẫn tưới được cho cây trồng vì chỉ bị ô nhiễm hữu cơ. về lâu về dài, Việt Nam sẽ đối mặt với vấn nạn trầm trọng là tài nguyên nước bị ô nhiễm, con người không sử dụng được, thậm chí tưới cho cây trồng cũng không được vì bị nhiễm hóa chất độc.
Bảo vệ tài nguyên đất: Với những lí do tương tự như trên nhưng lại bức xúc hơn nữa, vì xử lý đất ô nhiễm vừa khó khăn, vừa tốn kém hơn lại dính dáng đến nước ngầm. Lấy ví dụ cụ thể vào giữa thập niên 1980, một chiếc xe tải chở thiết bị điện chứa hợp chất. PCB (polychlorobiphenyls, có thể gây ung
thư), vì bất cẩn làm rò rỉ PCB trên khoảng chục ki lô mét đường quốc lộ xuyên Canada. Chính quyền phải phong tòa đoạn quốc lộ này, di tản dân địa phương, ra thông báo các chủ nhân có xe ô tô đã đi qua đoạn đường đó phải có biện pháp tẩy rửa xe và garage, xử lý đoạn đường bị nhiễm... Chi phí xử lý và khắc phục tổng cộng tốn hàng triệu đô la Mỹ mà vẫn chưa an tâm về tác động xấu đến môi trường.
Quản lí chất thải độc hại: Chỉ tính riêng TPHCM hiện nay có khoảng 30.000 xí nghiệp công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp sử dụng nhiều hóa chất, hợp chất có đặc tính nguy hiểm như phóng xạ, dễ cháy nổ, ăn mòn kim loại... Mỗi ngày các xí nghiệp này thải ra khoảng 217 tấn chất thải nguy hại dạng rắn và lỏng gây ô nhiễm môi trường, trong khi đó chỉ có 600/30.000 đơn vị (chiếm có 2%) đăng kí chủ nguồn chất thải nguy hại. cần phải có biện pháp bắt buộc các doanh nghiệp có trách nhiệm trong việc xử lý chất thải nguy hại do mình gây ra và đầu tư tăng cường các công ty có chức năng xử lý chất thải nguy hại.
Nhất quyết không cho nhập phê’ thải, hàng hóa second-hand: Việt Nam chuẩn bị tiến lên khỏi nhóm các nước nghèo, tức là đã ’‘kham kh^”, thì hà cớ gì phải tiêu dùng phế liệu? Kinh nghiệm của các nước tiên tiến cho thấy không dùng hàng second-hand dù có hoặc cho không, biếu không nếu loại hàng này chứa chất nguy hại, cực kì nguy hiểm trong tương lai lâu dài hay không chứa chất nguy hại nhưng khi thanh lí vẫn phải cần đất làm bãi rác! Kiên quyết ngăn chặn hóa chất giả cũng đống nghĩa ngăn chặn phân bón giả, thuốc bảo vệ thực vật giả, thuốc kích thích thực vật giả... vì cuối cùng các chất giả này cũng sẽ đi vào môi trường. Ngoài ra, còn có tác động tệ hại hơn là các chất này cũng xâm nhập vào cơ thể con người!
Advertisements (Quảng cáo)
Gắn kết quyền lợi địa phương với quyền lợi đất nước. Nhà nước phải cầm chịch để ngăn chặn địa phương vì quyền lợi cục bộ mà hi sinh quyền lợi của quốc gia và không loại trừ vì quyền lợi cá nhân mà hi sinh quyền lợi tập thể. Điển hình là việc kí quyết định ồ ạt cho phép mở sâu gôn, xây nhà máy không có công nghệ xử lý ô nhiễm ngay trên cả đất lúa tốt “bờ xôi, ruộng mật”, ngân sách địa phương có lợi (không loại trừ túi tiền cá nhân cũng có lợi!) nhưng tác hại nhiều đến an sinh xã hội an ninh lương thực, chứ không chỉ đơn thuần là ô nhiễm môi trường. Bởi vậy, cần thêm mục tiêu kế tiếp sau
Gắn kết với quyền lợi người dân Việt Nam. Nhiều luận cứ đưa ra về việc phát triển kinh tế - xã hội bỏ quên một điểm cốt lõi: dự án phát triển có thể mang lại tác hại cho một bộ phận xã hội. một cộng đồng mà họ hoàn toàn không hưởng lợi gì từ dự án, lại hoàn toàn không được đền bù. Nông dân mất đất có tiền đền bù đã đành, nhưng tiền đền bù này có giúp họ mua được ở nơi khác, mảnh đất với diện tích và độ màu mỡ tương dương hay không? Đa phần là không. Còn đất là còn cách kiếm sống tuy nhọc nhằn, tuy không sang giàu, nhưng chấp nhận được. Không còn đất, họ không thể chuyển nghề có hiệu quả, rồi dần dà tiền đền bù tiêu xài hết, họ và đám con cháu sẽ sống bằng cách nào? Rồi những sông rạch bị ô nhiễm đến nỗi không ai dám dùng nước, ruộng rẫy bị ô nhiễm, năng suất tụt giảm, thì chưa hề có tiền lệ để đền bù cho người dân Việt Nam. Thực thi pháp luật. Pháp luật ta tuy chưa hoàn chỉnh nhưng nếu thực thi chặt chẽ thì cũng có tác dụng chứ không phải là vô hiệu như vài luận cứ chống chế. Biện pháp phạt tiền đã có, nhưng đâu có hạn định mỗi năm tối đa phạt bao nhiêu! Thế thì nếu gây ô nhiễm mà tái phạm đi tái phạm lại thì cứ phạt đi, phạt lại thử xem! Xin đừng ra án phạt một vài chục triệu đồng cho hành động vi phạm trên diện rộng, có tầm mức nguy hại cao mà lại tái phạm nhiều lần (Phạt như thế e rằng làm trò cười cho quốc tế trong thời đại hội nhập này). Đi kiểm tra đánh giá mức độ ô nhiễm mà lại báo trước dễ tạo điều kiện cho đối tượng tìm cách đối phó. Ngay cả án tù vì tội gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng, ta cũng đã có, nhưng lại loay hoay về việc tuyên án ai.
Ở Thụy Điển, có lần tòa án tuyên án tù cho người quản lí đã ra lệnh công nhân dưới quyền đem chôn bất hợp pháp chất thải nguy hại. Tòa án dựa trên lí lẽ rằng công nhân chỉ thừa lệnh thì không bị tù, tổng giám đốc không ra lệnh thì cũng không bị tù, nhưng người quản lí rõ ràng là đã ra lệnh ấy nên phải chịu trách nhiệm trước pháp luật. Trong một số vụ việc, chính quyền còn điều đình với công ty vi phạm phải trả tiền bồi thường cao hơn mức tiền phạt mà luật cho phép. Tương tự như vậy, ta có thể tính ra thiệt hại cho nuôi trồng thủy sản, sản lượng hoa màu giảm sút... trình tòa án giải quyết chứ không nhất thiết bị hạn chế bởi tiền phạt của vi phạm bảo vệ môi trường.
Cần rà soát lại, để phát hiện những kẽ hở thì nên gấp rút hoàn chỉnh để pháp luật có hiệu lực mạnh hơn. Ví dụ như chỉ cần thải chất gây ô nhiễm môi trường vượt quá tiêu chuẩn cho phép, gây hậu quả nghiêm trọng cho môi trường là bị xử lý hình sự. Tiền phạt với tội phạm môi trường cũng phải thích đáng đủ sức răn đe Tóm lại, bài học lớn nhất cho những người có trách nhiệm về quy hoạch phát triển quốc gia là phát triển kinh tế phải đi đôi với bảo vệ môi trường. Trong giai đoạn phát triển, ta nên rà soát lại mà điều chỉnh các mục tiêu phát triển, đó là vì tương lai, vì đất nước nói chung, và vì chất lượng cuộc sống.
Xin lưu ý là chất lượng cuộc sống không phải chỉ được đo bằng GDP, bằng sản lượng điện tiêu thụ, sản lượng của công nghiệp ngành nhựa, cần tham khảo cách phân loại chất lượng sống của UNDP để suy ngẫm thêm chất lượng cuộc sống mà ta cần hướng đến. Cha mẹ người Việt có truyền thông hi sinh vì con cái. Bảo vệ môi trường đòi hỏi từ lãnh đạo đến người dân cùng nhau chung sức xây dựng đường hướng phát triển cho đúng cách, có chiều sâu, nghĩa là bảo vệ cuộc sống không phải chỉ cho chính thế hệ hôm nay mà còn cho cả mai sau.