Trang chủ Lớp 12 SBT Lịch sử lớp 12 Bài tập 6 trang 73, 74 SBT Sử 12: Hoàn thành bảng...

Bài tập 6 trang 73, 74 SBT Sử 12: Hoàn thành bảng dưới đây về công tác chuẩn bị cho Tổng khởi nghĩa...

Hoàn thành bảng dưới đây về công tác chuẩn bị cho Tổng khởi nghĩa tháng Tám nầm 1945. Bài tập 6 trang 73, 74 Sách bài tập (SBT) Lịch sử 12 – Bài 16. PHONG TRÀO GIẢI PHÓNG DÂN TỘC VÀ TỔNG KHỞI NGHĨA THÁNG TÁM (1939 – 1945). NƯỚC VIỆT NAM DÂN CHỦ CỘNG HOÀ RA ĐỜI

Advertisements (Quảng cáo)

Hoàn thành bảng dưới đây về công tác chuẩn bị cho Tổng khởi nghĩa tháng Tám nầm 1945:

Bước đầu chuẩn bị (1941 -1942)

Gấp rút chuẩn bị (1943-1944)

Chuẩn bị cuối cùng

(đầu năm 1945-trước ngày Tổng khởi nghĩa)

 

Bước đầu chuẩn bị (1941 -1942)

Gấp rút chuẩn bị (1943-1944)

Chuẩn bị cuối cùng

(đầu năm 1945-trước ngày Tổng khởi nghĩa)

 

* Xây dựng lực lượng chính trị:

  +Ở Cao Bằng:

–  Nhiệm vụ cấp bách là  vận động quần chúng tham gia Việt Minh. Cao Bằng là nơi thí điểm xây dựng các Hội Cứu quốc.

– Năm 1942 , khắp  các châu ở Cao Bằng đều có Hội Cứu quốc , trong đó có ba châu hoàn toàn ,Ủy ban Việt Minh tỉnh  Cao bằng và liên tỉnh Cao-Bắc-Lạng đựoc thành lập..

– Ở miền Bắc và miền Trung, các “Hội phản đế” chuyển sang các “Hội cứu quốc”, nhiều “Hội cứu quốc” mới được thành lập.

– Năm 1943, Đảng đưa ra bản “Đề cương văn hóa Việt Nam” và vận động thành lập Hội văn hóa cứu quốc Việt Nam (cuối 1944) và Đảng dân chủ Việt Nam đứng trong Mặt trận Việt Minh (6/1944).

– Đảng cũng tăng cường vận động binh lính Việt và ngoại kiều Đông Dương chống phát xít.

* Xây dựng lực lượng vũ trang: 

– Sau khởi nghĩa Bắc Sơn, đội du kích Bắc Sơn thành lập, hoạt động tại căn cứ Bắc Sơn – Võ Nhai.

– Năm 1941, các đội du kích Bắc Sơn thống nhất thành Trung đội Cứu quốc quân số I (14-2-1941), phát động chiến tranh du kích trong 8 tháng.

– Ngày 15/9/1941, Trung đội Cứu quốc quân II ra đời.

*  Xây dựng căn cứ địa cách mạng:

Hai  căn cứ địa đầu tiên của cách mạng nước ta là: Bắc Sơn – Võ Nhai và Cao Bằng

– Hội nghị Trung ương 11/1940 xây dựng Bắc Sơn – Võ Nhai thành căn cứ địa cách mạng .

– 1941, sau khi về nước, Nguyễn Ai Quốc chọn Cao Bằng để xây dựng căn cứ địa dựa trên cơ sở lực lượng chính trị và tổ chức phát triển.

– Từ đầu  năm 1943, Hồng quân LiênXô chuyển sang phản công quân Đức , sự thất bại của phe phát xít đã rõ ràng àphải đẩy mạnh hơn nữa công tác chuẩn bị khởi nghĩa.

– Tháng 02/1943, Ban Thường vụ Trung ương Đảng họp  tại Võng La (Đông Anh- Phúc Yên) vạch ra kế hoạch chuẩn bị toàn diện cho khởi nghĩa vũ trang.

 +Khắp nông thôn, thành thị miền Bắc, các đoàn thể Việt Minh, các Hội Cứu quốc  được xây dựng và củng cố .

    +Ở căn cứ Bắc Sơn – Võ Nhai, Trung đội cứu quốc quân III ra đời (25/02/1944).

    + Ở căn cứ Cao Bằng, các đội tự vệ vũ trang, đội du kích thành lập.

    + Năm 1943, 19 ban “ xung phong “Nam tiến” được lập ra để  liên lạc với căn cứ địa Bắc Sơn – Võ Nhai và phát triển lực lượng xuống miền xuôi .

    + 07/05/1944: Tổng bộ Việt Minh ra chỉ thị “sửa soạn khởi nghĩa”

    + 22/12/1944, theo chỉ thị của Hồ Chí Minh, Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân thành lập. Hai ngày sau, đội thắng hai trận Phay Khắt và Nà Ngần.( 5-1945 hai đội Việt Nam tuyên truyền Giải phóng quân  và Cứu Quốc Quân  hợp thành Việt Nam Giải phóng Quân).

    +  Công cuộc chuẩn bị được tiếp tục cho đến trước ngày Tổng khởi nghĩa .

-Từ ngày 15 đến 20/4/1945, Hội nghị quân sự cách mạng Bắc kỳ quyết định:

+ Thống nhất các lực lượng vũ trang, phát triển hơn nữa lực lương vũ trang và nửa vũ trang.

+ Mở trường đào tạo cấp tốc cán bộ quân sự và chính trị;

+ Phát triển chiến tranh du kích, xây dựng căn cứ địa kháng Nhật, chuẩn bị  Tổng khởi nghĩa khi thời cơ đến, Ủy ban Quân sự cách mạng Bắc Kỳ được thành lập.

+ Ngày 16-4-1945 Ủy Ban dân tộc giải phóng Việt Nam và Ủy Ban Dân tộc giải phóng các cấp thành lập.

+ 15/05/1945, Việt Nam cứu quốc quân và Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân  thống nhất thành Việt Nam giải phóng quân.

+ 5-1945 Bác Hồ chọn Tân Trào ( Tuyên Quang ) làm trung tâm chỉ đạo phong trào cách mạng trong cả nước .

– 04/06/1945 thành lập Khu giải phóng Việt Bắc gồm 6 tỉnh Cao Bằng, Bắc Cạn, Lạng Sơn, Hà Giang, Tuyên Quang, Thái Nguyên và một số vùng thuộc các tỉnh lân cận Bắc Giang, Phú Thọ, Yên Bái, Vĩnh Yên. Tân Trào được chọn làm thủ đô. Ủy ban lâm thời Khu giải phóng được thành lập. Khu giải phóng Việt Bắc trở thành căn cứ địa chính của cách mạng cả nước và là hình ảnh thu nhỏ của nước Việt Nam mới.