Trang chủ Lớp 7 Ngữ văn lớp 7 Soạn bài: Những câu hát châm biếm trang 51 SGK Văn 7...

Soạn bài: Những câu hát châm biếm trang 51 SGK Văn 7 – Văn 7...

Những câu hát châm biếm – Soạn bài: Những câu hát châm biếm trang 51 SGK Ngữ Văn 7. Mỗi con vật trong bài 3 tượng trưng cho ai, hạng người nào trong xã hội xưa? Việc chọn các con vật để miêu tả, “đóng vai” như thế lí thú ở điểm nào? Cảnh tượng trong bài có phù hợp với đám tang không? Bài ca dao này phê phán, châm biếm cái gì?

Advertisements (Quảng cáo)

1: Bài 1 “giới thiệu” về “chú tôi” như thế nào? Hai dòng đầu có ý nghĩa gì? Bài này châm biếm hạng người nào trong xã hội?

Bài 1 “Giới thiệu” về chú tôi để rêu rao cầu hôn, chân dung gồm mấy nét giễu cợt, mỉa mai như sau:

– “Hay tửu hay tăm”: nghiện rượu.

– “Hay nước.chè đặc” nghiện chè đậm.

– “Hay nằm ngủ trưa” và ban ngày thì ước “những ngày mưa”, ban đêm thì ước “đêm thừa trống canh”’, nghiện ngủ.

Như vậy, rõ ràng “chú tôi” là người có nhiều tật, đã rượu, chè lại còn thêm lười biếng. Thông thường, giới thiệu việc nhân duyên, người ta phải nói tốt. Nhưng đây thì ngược lại.  Đó là cách nói ngược để châm biếm “chú tôi”

Hai dòng đầu của bài ca vừa để bắt vần, vừa để chuẩn bị cho việc giới thiệu nhân vật. Đây là hiện tượng thường gặp trong các bài ca dao.

Bài này châm biếm hạng người vừa nghiện ngập vừa lười biếng trong xã hội.

2: Bài 2 nhại lại lời của ai nói với ai? Em có nhận xét gì về lời của thầy bói? Bài ca này phê phán hiện tượng nào trong xã hội? Hãy tìm những bài ca dao khác có nội dung tương tự.

Bài 2 nhại lời thầy bói nói với người đi xem bói. Ở đây, lời của thầy bói là kiểu nói nước đôi, nói những chuyện hiển nhiên. Thế nhưng, thầy bói dùng cái trò ấu trĩ này để lường gạt những người nhẹ dạ cả tin. Bài ca dùng chính lời của thầy bói để nói ra bản chất của thầy bói. Đó là nghệ thuật “gậy ông đập lưng ông” để gây cười, châm biếm sâu sắc.

Bài ca dao này phê phán những kẻ hành nghề mê tín, lừa bịp, lợi dụng sự non dạ cùa người khác để kiếm tiền. Đồng thời, nó cũng châm biếm những người mê tín mù quáng, thiếu hiểu biết như ông thầy bói dốt nát kia.

Bài ca dao có nội dung tương tự:

– Chập chập thôi lại cheng cheng,

Con gà trống thiến để riêng cho thầy.

Đơm xôi thì đơm cho đầy

Đơm vơi thì thánh nhà thầy mất thiêng!

3. Mỗi con vật trong bài 3 tượng trưng cho ai, hạng người nào trong xã hội xưa? Việc chọn các con vật để miêu tả, “đóng vai” như thế lí thú ở điểm nào? Cảnh tượng trong bài có phù hợp với đám tang không? Bài cao dao này phê phán, châm biếm cái gì?

Mỗi con vật trong bài 3 là tượng trưng cho một loại người, một hạng người. Con cò tượng trưng cho người nông dân, hạng người dân thường, người nghèo ở làng xã. Cà cuống tượng trưng cho những kẻ tai to mặt iớn như xã trưởng, lí trưởng, hạng người lợi dụng quyền thế, lợi dụng cơ hội để có miếng ăn. Chim ri, chào mào tượng trưng cho loại người giông như cai lệ, lính lệ trong làng, đây là hạng người cũng có chút ít quyền lực, thường thừa cơ ăn theo. Chim chích dễ làm ta liên tưởng tới những anh mõ đi rao việc làng trong xã hội xưa.

Việc chọn các con vật để miêu tả, “đóng vai” như thế thật là lí thú. Vì các con vật là hình ảnh sinh động của đủ loại, đủ hạng người trong một đám tang. Từ người bị nạn đến người lợi dụng tai nạn người khác để chè chén kiếm phần. Qua đó, nội dung bài ca dao trở nên châm biếm, phê phán sâu sắc hơn.

Cảnh tượng trong bài hoàn toàn không phù hợp với một đám tang. Cái chết thương tám, cái tang tóc của gia đình con cò trở thành dịp ăn nháu, lao xao chia phần một cách vô lối.

Bài ca này phê phán, châm biếm hủ tục ma chay trong xã hội cũ. Đến nay hủ tục này vẫn còn.

4: Trong bài 4, chân dung “cậu cai” được miêu tả như thế nào? Em có nhận xét gì về nghệ thuật châm biến của bài ca dao này? 

Trong bài 4 chân dung “cậu cai” được miêu tả với những nét như sau:

– Đầu đội “nón dấu đuôi gà”: chi tiết này chứng tỏ cậu cai là lính và chứng tỏ cũng là người có “quyền hành”.

– “Ngón tay đeo nhẫn”: chi tiết này cho thấy cậu cai có vẻ cố làm thêm ra dáng.

– Thế nhưng, áo quần thì phải “đi mượn”, “đi thuê”. Thật là thảm hại cho một con người “quyền hành” như thế. Hóa ra “quyền hành” của cậu cai chỉ là sự khoe khoang, cố làm ra vẻ bên ngoài để lòe đời bịp người mà thôi.

Nghệ thuật châm biếm của bài ca dao này thể hiện ở mấy điểm:

– Tác giả dân gian gọi anh cai lệ là “cậu cai” vừa như để lấy lòng, vừa như xếp anh vào hạng trai lơ để mỉa mai kín đáo.

– Cách định nghĩa về cậu cai ở hai dòng đầu, tác giả dân gian như bĩu môi mà nói rằng, đội nón lên rồi đeo nhẫn vào là thành cậu cai, chứ cai là cái thứ gì chứ.

– “Ba năm được một chuyến sai” là dùng nghệ thuật phóng đại. Ý nói chẳng mấy khi cậu cai mới được một “chuyến sai”. Và vì chẳng mấy khi cho nên áo quần quan có mây lần mặc, chẳng cần chuẩn bị làm gì, để rồi mỗi lúc cần thì “đi mượn” hoặc “đi thuê”. “Áo ngắn đi mượn, quần dài đi thuê” cũng chính là sự phóng đại để tô điểm cho cái chẳng mấy khi trên.