1.Hoàn cảnh lịch sử mới của cuộc kháng chiến
Từ sau chiến thắng Việt Bắc thu –đông năm 1947, cuộc kháng chiến của nhân dân ta đã có thêm những thuận lợi, song cũng phải đối mặt với nhiều thách thức mới.
Ngày 1-10-1949, cách mạng Trung Quốc thành công, nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoar a đời.
Ngày 14-1-1950, Chủ tịch Hồ Chí Minh tuyên bố sẵn sang đặt quan hệ ngoại giao với các nước. Ngày 18-1-1950, Chính phủ Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa ngày , 30-1-1950 Chính phủ Liên Xô, và trong vòng một tháng sau, các nước trong phe xã hội chủ nghĩa lần lượt công nhận và đặt quan hệ ngoại giao với nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.
Về phía địch, ngày 13-5-1949, với sự đồng ý của Mĩ, Chính phủ Pháp đề ra kế hoạch Rơve.
Với kế hoạch này, Mĩ từng bước can thiệp sâu và “dính líu” trực tiếp vào cuộc chiến tranh ở Đông Dương.
Ngày 7-2-2959, Mĩ công nhận Chính phủ Bảo Đại (thành lập tháng 7-1949); ngày 8-5-1950, Mĩ đồng ý viện trợ kinh tế và quân sự cho Pháp nhằm từng bước nắm quyền điều khiển trực tiếp chiến tranh ở Đông Dương.
Thực hiện kế hoạch Rơve, từ tháng 6-1949, Pháp tăng cường phòng ngự trên Đường số 4, thiết lập “Hàng lang Đông-Tây” (Hải Phòng-Hà Nội-Hòa Bình-Sơn La). Trên cơ sở đó, Pháp chuẩn bị một kế hoạch quy mô lớn tiến coong Việt Bắc lần thứ hai, mong giành thắng lợi để nhanh chóng kết thúc chiến tranh.
2. Chiến dịch Biên giới thu-đông năm 1950
Advertisements (Quảng cáo)
Việc Pháp thực hiện kế hoạch Rơve đã làm cho vùng tự do của ta bị thu hẹp, căn cứ địa Việt Bắc bị bao vây….Để khắc phục khó khăn, đưa cuộc kháng chiến phát triển lên một bước mới, tháng 6-1950, Đảng và Chính phủ quyết định mở chiến dịch Biên giới nhằm tiêu diệt một bộ phận quan trọng sinh lực địch; khai thông đường snag Trung Quốc và thế giới; mở rộng và củng cố căn cứ địa Việt Bắc, tạo đà thúc đẩy cuộc kháng chiến tiến lên.
Chủ tịch Hồ Chí Minh ra mặt trận để cung Bộ chỉ huy chiến dịch chỉ đạo và động viên bộ đội chiến đấu.
Hình 49. Bác Hồ thăm một đơn vị tham gia chiến dịch Biên giới thu-đông năm 1950
Sáng sớm 16-9-1950 các đơn vị quân đội ta nổ súng mở đầu chiến dịch bằng trận đánh vào vị trí Đông Khê. Sau hơn hai ngày chiến đấu, sáng 18-9, bộ đội ta tiêu diệt hoàn toàn cụm cứ điểm Đông Khê. Mất Đông Khê, quân địch ở Thất Khê lâm vào tình thế bị uy hiếp. Cao Bằng bị cô lập. Trước nguy cơ bị tiêu diệt, quân Pháp buộc phải rút khỏi Cao Bằng theo Đường số 4. Để yểm trợ cho cuộc rút quân này, Pháp huy động quân từ Thất Khê tiến lên chiếm lại Đông Khê và đón cánh quân từ Cao Bằng rút về. Đoán trước được ý định của địch, quân ta chủ động mai phục, chặn địch nhiều nơi trên Đường số 4 khiến cho hai cánh quân này không gặp được nhau. Đến lượt Thất Khê bị uy hiếp, quân Pháp buộc phải rút về Na Sầm (8-10-1950) và ngày 13-10-1950, rút khỏi Na Sầm về Lạng Sơn. Trong khi đó, cuộc hành quân của địch lên Thái Nguyên cũng bị quân ta chặn đánh.
Quân Pháp trở nên hoảng loạn, phải rút chạy, Đường số 4 được giải phóng ngày 22-10-1950.
Phối hợp với mặt trận biên giới, quân ta đã hoạt động mạnh ở tả ngạn sông Hồng, Tây Bắc, Đường số 6, Đường số 12, buộc địch phải rút khỏi thị xã Hòa Bình (4-11-1950). Chiến tranh du kích phát triển mạnh ở Bình-Trị Thiên, Liên khu V và Nam Bộ.
Sau hơn một tháng chiến đấu, chiến dịch Biên Giới kết thúc thắng lợi. Ta đã loại khỏi vòng vây chiến đấu hơn 8 000 tên địch, giải phóng một vùng biên giới Việt –Trung từ Cao Bằng với Đình Lập với 35 vạn dân, chọc thủng “Hành lang Đông-Tây” của Pháp. Thế bao vây của địch cả trong lẫn ngoài đối với căn cứ địa Việt-Bắc bị phá vỡ. Kế hoạch Rơve bị phá sản .
Với chiến thắng Biên giới, con đường liên lạc của ta với các nước xã hội chủ nghĩa được khai thông; quân đội ta đã giành được thế chủ động trên chiến trường chính (Bắc Bộ), mở ra bước phát triển mới của cuộc kháng chiến.