Câu 1
Trong truyện, cô bé bán diêm được miêu tả với đặc điểm:
A. nhà nghèo, mồ côi cha
B. đầu trần, áo bông
C. chân đất, bụng đói
D. mồ côi mẹ, chân đi giày
Đọc kĩ văn bản
Đáp án C
Câu 2
Khi quẹt que diêm thứ nhất, em bé đã tưởng tượng ra một bàn ăn thịnh soạn với khăn trải bàn trắng tinh, bát đĩa bằng sứ quý giá và có cả một con ngỗng quay.
A. Đúng
B. Sai
Đọc kĩ văn bản
Đáp án B
Câu 3
Vì sao sau khi que diêm thứ tư phụt tắt, em bé đã quẹt tất cả những que diêm còn lại trong bao?
Đọc kĩ văn bản
Sau khi que diêm thứ tư phụt tắt, em bé đã quẹt tất cả những que diêm còn lại trong bao vì em bé muốn níu giữ bà của mình ở lại! Nhờ những que diêm nối nhau chiếu sáng như giữa ban ngày, em đã được sống tiếp trong một giấc mơ đẹp đẽ: thấy bà em to lớn và đẹp lão, bà cầm tay em, hai bà cháu bay vụt lên cao, cao mãi, chẳng còn đói rét đau buồn nào.
Câu 4
(Câu hỏi 2, SGK) Hãy tìm những chi tiết hiện thực và mộng ảo mà nhà văn đã sáng tạo ra để khắc hoạ hoàn cảnh và ước mơ của cô bé bán diêm. Qua đó, em có nhận xét gì về nhân vật này?
Đọc kĩ văn bản
Nhân vật cô bé bán diêm trong truyện đã được tác giả khắc họa thông qua những chi tiết hiện thực (Một cô bé bán diêm nhà nghèo, mồ côi mẹ, đầu trần, chân đất, bụng đói, đang dò dẫm trong bóng tối. Suốt cả ngày em không bán được bao diêm nào; gia đình em đã phải lìa ngôi nhà xinh xắn có dây trường xuân bao quanh, nơi em đã sống những ngày đầm ấm, để đến chui rúc trong một xó tối tăm, luôn luôn nghe những lời mắng nhiếc, chửi rủa; em ngồi nép trong một góc tường, giữa hai ngôi nhà, một cái xây lùi vào chút ít; em thu đôi chân vào người, nhưng mỗi lúc em càng thấy rét buốt hơn; Trong buổi sáng lạnh lẽo ấy, ở một xó tường, người ta thấy một em gái có đôi má hồng và đôi môi đang mỉm cười. Em đã chết vì giá rét trong đêm giao thừa; ngày mồng một đầu năm hiện lên trên thi thể em bé ngồi giữa những bao diêm,...) và mộng ảo (Em hơ đôi tay trên que diêm sáng rực như than hồng... Em tưởng chừng như đang ngồi trước một lò sưởi bằng sắt có những hình nổi bằng đồng bóng nhoảng; Em quẹt que diêm thứ hai... Bức tường như biển thành một tấm rèm bằng vải màu. Em nhìn thấu tận trong nhà. Bàn ăn đã dọn, khăn trải bàn trắng tinh, trên bàn toàn bát đĩa bằng sứ quý giá. Em quẹt que diêm thứ ba. Bỗng em thấy hiện ra một cây thông Nô-en ... Em quẹt một que diêm nữa vào tường, một ánh sáng xanh toả ra xung quanh và em bé nhìn thấy rõ ràng là bà em đang mỉm cười với em,...).
Advertisements (Quảng cáo)
=> Những chi tiết này đã góp phần khắc họa cuộc sống nghèo khổ, kém may mắn và ước mơ cuộc sống no đủ và tràn đầy tình yêu thương của cô bé bán diêm.
Câu 5
(Câu hỏi 3, SGK) Theo em, ý nghĩa của câu chuyện trên là gì?
Đọc kĩ văn bản để nêu ý nghĩa
Truyện gửi gắm thông điệp về lòng nhân ái, mỗi người cần biết cảm thông, thương xót, sẻ chia với những số phận nghèo khổ, kém may mắn trong cuộc sống; mỗi bạn nhỏ cần phải nuôi dưỡng những ước mơ tốt đẹp,...
Câu 6
(Câu hỏi 4, SGK) Em hãy tìm một số chỉ tiết trong văn bản đề chứng tỏ truyện Cô bé bán diêm có đặc điểm của truyện cổ tích (Gợi ý: kiểu nhân vật, cách kết thúc truyện, ý nghĩa,...).
Đọc kĩ văn bản
Một số chi tiết cho thấy truyện Cô bé bán diêm mang đặc điểm của truyện cổ tích: kiểu nhân vật bất hạnh, nhỏ bé, nghèo khổ (cô bé bán diêm); kết thúc truyện tươi sáng (truyện không kết thúc bằng chi tiết “em đã chết vì giá rét trong đêm giao thừa” mà khép lại bằng cảnh tượng “ngày mồng một đầu năm” và “những cái kì diệu em đã trông thấy, nhất là cảnh huy hoàng lúc hai bà cháu bay lên để đón lấy những niềm vui đầu năm”); truyện gửi gắm ý nghĩa: ước mơ về cuộc sống tươi đẹp, hạnh phúc cho con người, trong đó có trẻ em.
Câu 7
Tìm và dẫn ra một bài viết phân tích truyện Cô bé bán diêm để hiểu thêm nội dung, nghệ thuật của tác phẩm này.
Tham khảo sách báo, internet
PHÂN TÍCH NHÂN VẬT CÔ BÉ BÁN DIÊM
An-đéc-xen là nhà kể chuyện cổ tích nổi tiếng của thế giới phương Tây. Ngoài việc sưu tầm, ông còn sáng tạo. Cô bé bán diêm là một sáng tác độc đáo, một câu
chuyện cổ tích về thời hiện đại, thể hiện tài năng kể chuyện bậc thầy của ông. Thời hiện đại ở đây chính là thời đại mà tác giả sống, thời đại mà con người đã biết chế tạo và sử dụng diêm, con người biết đi lại bằng những cỗ xe song mã, biết tổ chức đón giao thừa với những cây thông Noel lộng lẫy. Câu chuyện Cô bé bán diêm kể về xã hội ấy, kể lại cái chết thương tâm của một cô bé nghèo khổ.
Mở đầu câu chuyện, tác giả giới thiệu một bối cảnh khắc nghiệt và khác thường Khắc nghiệt bởi vì "trời đã tối dần” mà “tuyết rơi” không ngừng, và rét dữ dội” Khác thường là vì đêm nay là "đêm giao thừa”, nghĩa là một thời điểm đặc biệt đối với mỗi gia đình và đối với mỗi con người. Đêm giao thừa ở đâu cũng vậy, đều là thời điểm mà năm cũ với những buồn vui lẫn lộn lùi vào quá khứ và một năm mới với những hi vọng tràn trề đang chờ đợi mọi người được mở ra. Nhưng đêm giao thừa ở phương Tây rất rét, vì lúc này đang giữa mùa đông. Khắp nơi đầy tuyết phủ, khắp nơi đầy giá lạnh. Ấy thế mà trong cái giá lạnh đó, trong cái đêm giao thừa đó, một em gái nhỏ đầu trần, chân đất, đang dò dẫm trong bóng tối”. Em bé đi đâu vậy? Em phải đi bán diễm vi “nếu không bán được ít bao diêm, hay không ai bố thí cho một đồng xu nào” thì “em không thể nào về nhà”, bởi lẽ khi đó “nhất định là cha em sẽ đánh em”. Bởi vì từ khi “Thần Chết đã đến cướp bà em đi mất, gia sản tiêu tán và gia đình em đã phải la ngôi nhà xinh xắn có dây trường xuân bao quanh, nơi em đã sống những ngày đầm ấm, để đến chui rúc trong một xó tối tăm, luôn luôn nghe những lời mắng nhiếc chửi rủa”. Hơn nữa “ở nhà cũng rét thế thôi. Cha con em ở trên gác sát mái nhà, và mặc dầu đã nhét giẻ rách vào các kẽ hở lớn trên vách, gió vẫn thổi rít vào trong nhà”. Như vậy, em bé bán diễm này là một em bé có hoàn cảnh nghèo khổ.
Em bé đáng thương không tên tuổi này giống như kẻ lạc loài, bơ vơ trên mặt đất đầy tuyết phủ. [-] Những người qua đường cũng không ai để ý đến một đứa trẻ đang bị tuyết phủ dần dần. Chắc chắn là em đã đi trong mưa tuyết như vậy rất lâu. Giờ đây, em không còn đi được nữa. “Em ngồi nép trong một góc tường, giữa hai ngôi nhà, một cái xây lùi vào chút ít”. Đó là một nơi mà ai đi qua cũng phải tránh nhưng cũng buộc mọi người phải chú ý. Em bé ngồi chỗ đó với hi vọng mọi người sẽ chú ý đến em, sẽ có người mua diễm cho em. Xung quanh em “cửa sổ mọi nhà đều sáng rực ánh đèn và trong phố sực nức mùi ngỗng quay”. Mùi ngỗng quay nhắc em đêm nay là “đêm giao thừa”. Mùi ngỗng quay nhắc em nhớ tới thời kì đầm ấm của gia đình em trước đây. Còn hiện tại, em đang ngập chìm trong tuyết lạnh: “Em thu đôi chân vào người, nhưng mỗi lúc em càng thấy rét buốt hơn.”. Lúc này đôi bàn tay của em bé bán diêm tội nghiệp “đã cứng đờ ra”. Em bé nghĩ tới việc dùng diêm để “hơ ngón tay”. Và em “đánh liều quẹt một que”. Ngọn lửa bùng lên trong đêm giao thừa giá lạnh, mang lại cho em một niềm vui: “Ngọn lửa lúc đầu xanh lam, dần dần biến đi, trắng ra, rực hồng lên quanh que gỗ, sáng chói trông đến vui mắt. Em bé hơ bàn tay giá lạnh trên ánh lửa nhỏ nhoi của que diêm mà tưởng tượng rằng em đang ngồi trước lò sưởi, nơi đó đang “toả ra hơi nóng dịu dàng”. Nhưng đây chỉ là một điều mong ước, chỉ là một điều mộng tưởng. Bởi lẽ “em vừa duỗi chân ra sưởi thì lửa vụt tắt, lò sưởi biến mất”, “Em bần thần cả người và chợt nghĩ ra rằng cha em đã giao cho em đi bán diêm.”. Thật đáng buồn biết bao vì giữa ước mơ và hiện thực là một khoảng cách xa vời. Một cái lò sưởi trong đêm đông giá rét, một mái nhà ấm cúng mãi mãi là ước mơ, là khát vọng của em bé.
Cùng với cái rét, cái đói cũng hiện về. Que diêm thứ hai “cháy và sáng rực lên”. Que diêm cho em thấy “bàn ăn đã dọn, khăn trải bàn trắng tinh, trên bàn toàn bát đĩa bằng sứ quý giá và có cả một con ngỗng quay. Nhưng điều kì diệu nhất là ngỗng ta nhảy ra khỏi đĩa và mang cả dao ăn, phuốc-sét cắm trên lưng, tiến về phía em bé.”. Thật hấp dẫn biết bao. Một bữa ăn vừa ngon vừa sang dành cho em bởi vì em đã đói lắm rồi, song bữa ăn đó cũng chỉ là ước mơ, mộng tưởng. Vì thế, khi que diêm vụt tắt thì thực tế đã thay cho mộng tưởng: “chẳng có bàn ăn thịnh soạn nào cả, mà chỉ có phố xá vắng teo, lạnh buốt, tuyết phủ trắng xoá, gió bấc vi vu và mấy người khách qua đường quần áo ấm áp vội vã đi đến những nơi hẹn hò, hoàn toàn lãnh đạm với cảnh nghèo khổ của em bé bán diêm”. Bên cạnh em giờ đây chỉ có đói và rét, và để chống lại, em dùng ánh sáng và hơi ấm của que diêm. Trong ánh sáng ngắn ngủi của que diêm, em tưởng tượng ra những thứ mình cần, em tạo ra thế giới cho riêng em, bởi lẽ gió rét ngăn cản mọi người đến với em. Cái đói cũng ngăn cản những người khác đến với em, trước mặt em cũng như sau lưng em chỉ còn lại những bức tường cô độc và lạnh lẽo. Những bức tường câm lặng, những bức tường không biết nói do con người tạo ra để che chở cho con người này và để tạo ra sự cách ngăn đối với con người khác.
Em bé còn lại một mình trong cái thế giới của em, thế giới đó bị tuyết trắng và đêm đen bao phủ. Để xua đi màn đêm và giá rét, “em quẹt que diêm thứ ba”. “Em thấy hiện ra một cây thông Nô-en”, “cây này lớn và trang trí lộng lẫy” với hàng ngàn ngọn nến sáng rực, lấp lánh trên cành lá xanh tươi và rất nhiều bức tranh màu sắc rực rỡ”,... Cây thông Nô-en gợi nhớ một truyền thống tặng quà và quan tâm đến trẻ em của phong tục phương Tây. Nhưng có lẽ câu chuyện về ông già Nô-en cũng chỉ là một huyền thoại xa vời, còn trong thực tại, em bé bán diêm còn đang ngập chìm trong tuyết lạnh. Em cũng chẳng cần đến những món quà của ông già Tuyết nữa bởi lẽ tuyết và giá rét quanh em đã quá thừa rồi. Que diêm thứ ba cũng tắt. Sự sống của nó cũng quá ngắn ngủi. Nó không xua đi được màn đêm, nhưng màn đêm không thắng nổi nó. Que diêm tắt thì tất cả những ngọn nến mà cô bé bán diêm thấy trên cây thông Nô-en cũng “bay lên, bay lên mãi rồi biến thành những ngôi sao trên trời”. Khi đó, em nghĩ tới cái chết, vì bà em, “người hiền hậu độc nhất đối với em thường nói: “Khi có một vì sao đổi ngôi là có một linh hồn bay lên trời với Thượng đế.”. Nhưng thật buồn vì bà em đã chết từ lâu. Nhưng cũng chẳng hề gì bởi những người đang sống không ai nghĩ về em, không ai nghĩ đến em thì em đi tìm nguồn an ủi nơi người bà yêu quý. Và thế là em quẹt diêm. “Em bé nhìn thấy rõ ràng là bà em đang mỉm cười với em”, “em bé reo lên” và van xin bà “Cho cháu đi với “Cháu van bà, bà xin Thượng đế chí nhân cho cháu về với bà. Chắc Người không từ chối đâu.”
Thật đau đớn xiết bao khi em bé bán diêm bị xã hội bỏ rơi, bỏ quên trong tuyết phủ đã quyết khước từ cuộc sống, quyết tâm tìm về thế giới bên kia. Trong thế giới của những người sống, em không có chỗ đứng, không có điều kiện để sống. Bởi lẽ chỉ cần bán được một cái bao diêm thôi cũng đủ mang lại cho em cuộc sống, nhưng cả cái thế giới đi xe song mã ấy, cả cái thế giới nấp sau những cánh cửa sổ sáng rực ánh đèn ấy “chẳng ai đoái hoài đến lời chào hàng của em”. Không giao tiếp được với thế giới những người đang sống, em bé bán diêm tìm cách xác lập mối quan hệ giao tiếp với bà em. “Em quẹt tất cả những que diêm còn lại trong bao” để níu bà em lại. Kết quả là “Chưa bao giờ em thấy bà em to lớn và đẹp lão như thế này. Bà cụ cầm lấy tay em, rồi hai bà cháu bay vụt lên cao, cao mãi, chẳng còn đói rét, đau buồn nào đe doạ họ nữa.”.
Em bé đã chết một cách thê lương như vậy trong đêm giao thừa. Cái chết mang trong nó sức mạnh tố cáo xã hội. Cho dù người ta nhìn thấy trong xó tưởng “một em gái có đôi má hồng và đôi môi đang mỉm cười”, bên cạnh một bao diêm đã đốt hết nhẵn” thì những người đang sống cũng không thể nào biết được “những cái kì diệu em đã trông thấy, nhất là cảnh huy hoàng lúc hai bà cháu bay lên để đón lấy những niềm vui đầu năm”. Bởi vì những người đó ngoài việc sử dụng cái đói, cái rét để tạo sự ngăn cách của họ với em bé thì họ còn xây dựng những bức tường hoặc hữu hình hoặc vô hình để tạo ra sự ngăn cách mới giữa họ và em bé. Họ không có quyền được nhìn thấy, được tận hưởng những gì do mộng tưởng của em tạo ra. Bởi vì em thuộc về một thế giới khác. Cái chết của em bé còn là sự phê phán lối sống ích kỉ, co cụm, chỉ biết mình của thế giới hiện đại. Đó là sự cảm thông sâu sắc của nhà kể chuyện thiên tài An-đéc-xen.
(Theo Lê Nguyên Cẩn, Phân tích – Bình giảng tác phẩm văn học nước ngoài (ở trường phổ thông cơ sở), NXB Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh, Thành phố Hồ Chí Minh, 2002)