Trang chủ Lớp 9 Ngữ văn lớp 9 (sách cũ) Phân tích đoạn thơ Chị em Thúy Kiều trích trong Truyện Kiều...

Phân tích đoạn thơ Chị em Thúy Kiều trích trong Truyện Kiều của thi hào dân tộc Nguyễn Du: Thơ cổ viết về giai nhân thì đoạn thơ Chị em Thúy Kiều trích trong Truyện Kiều của thi...

Chị em thúy kiều (trích Truyện Kiều - Nguyễn Du) - Phân tích đoạn thơ Chị em Thúy Kiều trích trong Truyện Kiều của thi hào dân tộc Nguyễn Du.. Thơ cổ viết về giai nhân thì đoạn thơ Chị em Thúy Kiều trích trong Truyện Kiều của thi hào Nguyễn Du là một trong những vần thơ tuyệt bút. 24 câu lục bát đã miêu tả sắc, tài và đức hạnh chị em Thúy Kiều, Thúy Vân - hai tuyệt thế giai nhân với tất cả tấm lòng quý mến và trân trọng của nhà thơ thiên tài dân tộc.

  Thơ cổ viết về giai nhân thì đoạn thơ Chị em Thúy Kiều trích trong Truyện Kiều của thi hào Nguyễn Du là một trong những vần thơ tuyệt bút. 24 câu lục bát đã miêu tả sắc, tài và đức hạnh chị em Thúy Kiều, Thúy Vân - hai tuyệt thế giai nhân với tất cả tấm lòng quý mến và trân trọng của nhà thơ thiên tài dân tộc.

        Bốn câu đầu, Nguyễn Du giới thiệu vị thứ trong gia đình: "Thúy Kiều là chị, em là Thúy Vân”, là con đầu lòng cùa ông bà Vương viên ngoại. "Hai ả tố nga” là hai cô gái xinh xắn, xinh tươi. Cốt cách thanh cao như mai (một loài hoa đẹp và quý), tinh thần trinh trắng như tuyết. Hai chị em có nhan sắc tâm hổn hoàn mĩ "mười phân vẹn mười”, tuy thế, mỗi người lại có một nét đẹp riêng “ mỗi người một vẻ”.

Một cái nhìn phát hiện đầy trân trọng; lấy mai và tuyết làm chuẩn mực cái đẹp, Nguyễn Du miêu tả tâm hồn trong sáng, trinh trắng làm rõ cái thần bức chân dung thiếu nữ.

        Bốn câu tiếp theo tả nhan sắc Thúy Vân. Mỗi câu thơ là một nét vẽ tài hoa về bức chân dunc giai nhân. Cử chỉ, cách đi đứng... rất trang trọng quý phái. Cách ứng xử thì đoan trang. Mày nở nang, thanh tú như mày con bướm tằm. Gương mặt xinh tươi như trăng rằm. Nụ cười tươi thắm như hoa. Tiếng nói trong như ngọc. Tóc mềm, bóng mượt đến nỗi "mây thua”. Da trắng mịn làm cho tuyết phái "nhường”. Cách miêu tả đặc sắc, biến hóa. Sử dụng ẩn dụ, nhân hóa tài tình:

Khuôn trăng đầy đặn, nét ngài nở nang.

Hoa cười, ngọc thốt đoan trang.

Dùng thủ pháp so sánh, nhân hóa:

Mây thua nước tóc, tuyết nhường màu da.

Từ ngữ: "trang trọng”, "đoan trang” là 2 nét vẽ tinh tế, gợi tả cái thần của bức chân dung ả tố nga: vẻ đẹp quý phái, phúc hậu. Một cái nhìn nhân văn đầy quý mến trân trọng của nhà thơ khi miêu tả Thúy Vân.

         Mười hai câu tiếp theo tả sắc, tài Thúy Kiều. Nguyễn Du tả Thúy Vân trước, tả Thúy Kiều sau, chỉ dùng 4 câu tả Thúy Vân, dùng đến 12 câu tả Thúy Kiều. Đó là một dụng ý nghệ thuật của Nguyễn Du, Kiều không chỉ đẹp mà còn giàu tài năng. Vẻ đẹp của Kiều là ‘sắc sảo, mặn mà”, đẹp "nghiêng nước nghiêng thàmh”. Kiều là tuyệt thế giai nhân "sắc đành đòi một”. Tài năng thì may ra còn có người thứ hai nào đó bằng Kiều: tài đành họa hai”. Nguyễn Du dùng biện pháp tu từ ẩn dụ so sánh kết hợp với nhân hóa thậm xưng để ca ngợi và miêu tả nhan sắc Thúy Kiều:

Làn thu thủy, nét xuân sơn,

Hoa ghen thua thắm, liễu hờn  kém  xanh.

Mắt đẹp xanh trong như nước hồ thu, lông mày thanh tú như dáng vẻ, nét núi mùa xuân. Môi hồng má thắm làm cho “ hoa  ghen nước da trắng xinh làm cho liễu phải "hờn”. Vẫn lấy vẻ đẹp thiên nhiên (thu thủy, xuân sơn, hoa, liễu) làm chuẩn mực cho cái đẹp giai nhân, đó là bút pháp ước lệ trong thơ cổ. Tuy nhiên, nét vẽ của Nguyễn Du tài hoa quá, nét vẽ nào cũng có thần rất đẹp, một vẻ đẹp nhân văn.

Advertisements (Quảng cáo)

Kiều thông  minh vốn sẵn tính trời” nghĩa là thông minh bẩm sinh, cho nên các môn nghệ thuật như thi, họa, ca ngâm chỉ là các thú tao nhã nhưng nàng rất sành điệu, điêu luyện: “lầu bậc”, "ăn đứt” hơn hẳn thiên hạ:

Thông minh vốn sẵn tính trời,

Pha nghề thi họa, đủ mùi ca ngâm..

Cung thương lầu bậc  ngũ âm,

Nghề riêng ăn đứt hồ cầm một trưong.

Kiều giỏi về âm luật, giỏi đến mức  “lầu bậc”. Cây đàn mà nàng chơi là cây đàn hồ cầm; tiếng đàn cùa nàng thật hay "ăn đứt "bất cứ nghệ sĩ nào. Kiều còn biết sáng tác âm nhạc, tên khúc đàn của nàng sáng tác ra là một "thiênbạc mệnh "nghe buồn thê thiết “não nhân”, làm cho lòng người sầu não, đau khổ. Các từ ngữ: sắc sảo, mặn mà, phần hơn, ghen, hờn, nghiêng nước nghiêng thành, đòi một, họa hai, vốn sẵn, pha nghề, đủ mùi, lầu bậc, ăn đứt, bạc mệnh, não nhân - tạo nên một hệ thống ngôn ngữ cực tả tài sắc và hé lộ dự báo số phận bạc mệnh của Kiều, như ca dao lưu truyền:

Một vừa hai phải ai ơi!

Tài tình chi lắm cho trời đất ghen.

         Bốn câu cuối đoạn nói về đức hạnh hai ả tố nga;: Tuy là khách hồng quần đẹp thế, tài thế, lại "phong lưu rất mực”, đã tới tuần "cập kê "nhưng “ hai ả tố nga” đã và đang sống một cuộc đời nền nếp, gia giáo:

Êm đềm trướng  rủ màn che,

Tường đông ong bướm đi về mặc ai.

Câu thơ "Xuân xanh xấp xỉ tới tuần cập kê”  là một câu thơ độc đáo về thanh điệu, về sử dụng phụ âm "x” (xuân xanh xấp xỉ), phụ âm “t” (tới tuần), phu âm”c-k” (cập kê) tạo nên âm điệu nhẹ nhàng, êm đềm của cuộc sống yên vui,êm ấm của thiếu nữ phòng khuê.

     Đoạn thơ nói về Chị em Thúy Kiều là một trong những đoạn thơ hay nhất, đẹp nhất trong Truyện Kiều được nhiều người yêu thích và thuộc. Ngôn ngữ thơ tinh luyện, giàu cảm xúc. Nét vẽ hàm súc, gợi cảm, nét vẽ nào cũng có thần. Các bịên pháp tu từ ẩn dụ, so sánh, nhân hóa được thi hào vận dụng thần tình tạo nên những vần thơ ước lệ mà trữ tình, đầy chất thơ. Hàm ẩn sau bức chân dung mĩ nhân là cả một tấm lòng quý mến trân trọng. Đó là nghệ thuật tả người điêu luyện của thi hào Nguyễn Du mà ta cảm nhận được.

Bạn đang xem bài tập, chương trình học môn Ngữ văn lớp 9 (sách cũ). Vui lòng chọn môn học sách mới cần xem dưới đây:

Advertisements (Quảng cáo)