Thành tựu của thơ Đường có sự góp mặt của những đỉnh cao như Lí Bạch (701 – 762), Đỗ Phủ (712 – 770), Vương Duy (701 – 761), Bạch Cư Dị (772 – 846), Thôi Hiệu (704 – 754)…
2. Tác giả
Lí Bạch, tự Thái Bạch, nguyên quán ở tỉnh Cam Túc, lớn lên ở đất Tứ Xuyên, là người ham đọc sách, ham đấu kiếm, văn võ toàn tài, có nhiều ước mơ hoài bão, mong có dịp mang tài của mình ra giúp đời. Song cuộc đời của nhà thơ này cũng gặp nhiều chuyện thất vọng. Vì thế, thơ Lí Bạch khi hăm hở thực hiện hoài bão, khi lại chùng xuống với những suy tư đầy nỗi niềm của một người khát vọng lớn mà không có đất thực hiện.
Lí Bạch là một trong những đỉnh cao của thơ ca Trung Quốc. Thơ của ông đã thể hiện hai phương diện cơ bản trong con người “Thi tiên” Lí Bạch, đó là một nhà thơ có tài năng nghệ thuật đặc biệt và một con người có tấm lòng nghĩa tình cao cả đối với thiên nhiên và con người. Sự nghiệp sáng tác đồ sộ và giàu giá trị nhân văn của ông đã đưa ông trở thành nhà thơ có ảnh hưởng lớn tới thi đàn đời Đường và thơ ca Trung Quốc. Thơ Lí Bạch có phần lãng mạn tiêu cực song căn bản ông vẫn là nhà thơ lãng mạn tích cực. Thành công của ông thuộc về những thi phẩm thể hiện tình cảm của ông đối với nhân dân, với quê hương đất nước, với bạn bè. Tài năng nghệ thuật của ông là một tấm gương, một ước mơ cho muôn đời sau. Nỗi sầu nhân thế trong thơ ca Lí Bạch thể hiện một tấm lòng tha thiết tình đời, một tư tưởng nhân văn cao đẹp trong tâm hồn của nhà thơ đa tài – “Thi tiên” Lí Bạch. Thơ ca của Lí Bạch không chỉ giúp con người thanh lọc tâm hồn mà còn có khả năng nâng cao năng lực nghệ thuật cho người đọc. Những bài Đường thi vốn chặt chẽ và nghiêm ngặt về niêm luật trở nên uyển chuyển và mềm mại dưới bàn tay điêu luyện của người nghệ nhân có tâm hồn phóng khoáng này.
3. Tác phẩm
Bài Hoàng Hạc lâu tống Mạnh Hạo Nhiên chi Quảng Lăng là bài thơ nổi tiếng của Lí Bạch. Bài thơ khai thác đề tài tình bạn, là cảm xúc về một cuộc chia tay trong cảm nhận của người ở lại. Lấy cảm hứng từ cuộc chia tay với Mạnh Hạo Nhiên – một tri âm tri kỉ, nhà thơ đã thể hiện nỗi niềm day dứt của mình về cuộc đời. Ngôn ngữ, hình ảnh thơ độc đáo, đa nghĩa và có khả năng gợi cảm như “yên hoa”, “cố nhân”, “cô phàm”, “thiên tế lưu”…
4. Cách đọc
Đọc bản phiên âm nhịp 4/3. Đọc bản dịch thơ theo vần lục bát ; hai câu sau đọc chậm và nhẹ, diễn tả nỗi niềm của người ở lại sau cuộc chia tay.
II - Kiến thức cơ bản
“Sầu nhân thế” là một trạng thái tâm lí thường thấy ở người nghệ sĩ thời phong kiến. Đó luôn là đề tài được thể hiện nhiều nhất trong lịch sử thơ ca và đã làm nên rất nhiều những đỉnh cao cho nền văn học nhân loại. Nỗi sầu không thể giải toả ấy đã được thể hiện trong một câu thơ bất tử của một nhà thơ đời Đường, ấy là “Thi tiên” Lí Bạch, niềm tự hào của thơ ca cổ điển Trung Hoa :
Cất chén tiêu sầu, sầu cứ sầu
Rút dao chặt nước, nước vẫn chảy
(Trên lầu Tạ Liễu ở Dương Châu tiễn chú Vân làm Hiệu thư)
Lí Bạch tự là Thái Bạch, hiệu Thanh Liên cư sĩ, nguyên quán ở Thành Kỉ, Lũng Tây, sinh trưởng ở Thanh Liên, huyện Chương Minh thuộc Miên Châu. Quê hương Lí Bạch vốn là nơi có phong cảnh hùng vĩ, sơn thuỷ hữu tình nổi tiếng ở Trung Quốc. Nơi đây tụ họp nhiều anh hùng hảo hán, cũng là nơi sản sinh ra những truyện truyền kì hấp dẫn. Những nhân tố này đã ảnh hưởng nhiều đến hồn thơ phóng khoáng và ý chí kiên cường của nhà thơ, là một trong những nguyên nhân đưa Lí Bạch trở thành nhà thơ lãng mạn nổi tiếng của văn học Trung Hoa.
Cuộc đời Lí Bạch là cuộc đời của một con người đã “đọc nát vạn quyển sách, đi hết vạn dặm đường”. Lí Bạch sáng tác rất nhiều, có tới trên 1000 bài thơ và nhiều bài nổi tiếng. Thơ Lí Bạch là sự kết hợp của một tâm hồn thơ bay bổng và một tấm lòng luôn tha thiết tình đời. Mỗi bài thơ của ông là một tâm sự của một người luôn tha thiết được thực hiện chí quân tử, đồng thời cũng là niềm say mê cảnh đẹp của giang sơn gấm vóc. Hoàng Hạc lâu tống Mạnh Hạo Nhiên chi Quảng Lăng là một bài thơ thành công và thể hiện khá tập trung những nét tiêu biểu cho phong cách nghệ thuật thơ Lí Bạch. Bài thơ khai thác đề tài tình bạn, đề tài chia li giữa những người tri âm tri kỉ – một đề tài rất quen thuộc trong thơ ca cổ kim. Với một đề tài quen thuộc nhưng tài năng của Lí Bạch đã tạo nên một biểu tượng đẹp về tình bằng hữu. Mạnh Hạo Nhiên là bạn tri âm của Lí Bạch, trong bài thơ tặng Mạnh Hạo Nhiên, Lí Bạch viết :
Ta yêu Mạnh Hạo Nhiên
Phong lưu thiên hạ biết
Mạnh Hạo Nhiên (689 – 740) là một nhà thơ có tiếng đời Đường. Dù chênh nhau 12 tuổi nhưng giữa hai nhà thơ có nhiều điểm tương đồng, đều gặp nhiều trắc trở trong cuộc đời, tính tình hào hiệp, coi thường công danh, thích ngao du sơn thuỷ. Mạnh Hạo Nhiên theo lời triệu của triều đình, đi Dương Châu làm quan, chấm dứt những ngày bạn bè bên nhau, chén tạc chén thù. Bài thơ không có hình ảnh cuộc chia tay, chỉ có tâm sự của người đưa tiễn. Lầu Hoàng Hạc là một địa danh, di tích văn hoá nổi tiếng của Trung Quốc, lại là địa điểm của một cuộc chia li đầy tâm sự. Vì vậy, bài thơ như một bức tranh sơn thuỷ đẹp và gợi cảm. Ngôn ngữ thơ Đường vốn không phong phú nhưng lại rất hàm súc. Các nhà thơ cổ điển rất chú ý đến việc lựa chọn, gọt giũa và trau chuốt ngôn từ. Hình ảnh thơ cũng thường mang tính khái quát cao với những ẩn dụ tượng trưng có giá trị hàm súc. Nghệ thuật tinh xảo của ngôn ngữ và niêm luật tạo nên khả năng “ngôn hữu hạn ý vô cùng” cho bài thơ Đường. Niêm luật chặt chẽ và những quy tắc đối xứng tạo cho bài thơ vẻ đẹp cổ điển. Đặc biệt tính chất “thi trung hữu hoạ” và “thi trung hữu nhạc” được thể hiện rất triệt để trong thơ Đường.
Có thể thấy bài thơ được sáng tác vào giai đoạn Lí Bạch đã gặp một số trắc trở trên con đường thực hiện lí tưởng giúp nước của mình. Lí Bạch từng được giới thiệu vào triều đình của Đường Minh Hoàng nhưng ông đã rất thất vọng và tìm quên trong vò rượu. Tính tình phóng khoáng của Lí Bạch không hợp với cuộc sống chen chúc và đầy phức tạp chốn quan trường. Mạnh Hạo Nhiên là nhà thơ Đường thuộc trường phái thơ “sơn thuỷ điền viên”, là một người phóng khoáng, hợp với cuộc sống thanh nhàn nơi làng quê nhưng ông lại đến Dương Châu làm quan. Và vì thế Lí Bạch tiễn đưa bạn trong một tâm trạng đầy trắc ẩn, vừa cô đơn vừa lo lắng. Bài thơ tứ tuyệt cổ điển hai mươi tám chữ nhưng cô đọng cả một niềm day dứt lớn. Bài thơ có lối mở đầu quen thuộc của Đường thi, câu đề từ giới thiệu tình huống :
Cố nhân tây từ Hoàng Hạc lâu
(Bạn từ lầu Hạc lên đường)
Câu thơ dịch đã làm mất khả năng hàm súc của ngôn từ. Những từ “cố nhân”, “tây từ” truyền tải nghĩa rộng hơn nhiều so với từ “bạn” và ý nghĩa chỉ địa điểm cuộc chia tay. Hơn nữa, việc sử dụng nhiều thanh bằng và gieo vần bằng của nguyên tác đã gợi một dư âm cho câu thơ thể hiện trạng thái bịn rịn của cuộc li biệt. Cố nhân xuôi Dương Châu là đi về hướng đông. “Tây từ” là hướng về phía tây (về phía lầu Hoàng Hạc khi đã lên thuyền xuôi hướng Dương Châu), gợi hình ảnh người ra đi đang hướng về lầu Hoàng Hạc. Đây thực ra là hình ảnh người ra đi trong cảm nhận của người ở lại. Hình tượng, thời gian và không gian nghệ thuật của bài thơ đều được tái hiện qua cảm nhận của người ở lại. Câu thơ thứ nhất là hoàn cảnh, địa điểm của cuộc chia tay, đều rất cụ thể. Câu thơ thứ hai lại mở ra không gian cuộc chia tay – một không gian đầy chất thơ. Vừa là không gian thực của cuộc chia tay, vừa là không gian nghệ thuật :
Yên hoa tam nguyệt há Dương Châu
(Giữa mùa hoa khói, Châu Dương xuôi dòng)
Bốn chữ “yên hoa tam nguyệt” được dùng để chỉ thời gian, với ý nghĩa là tháng ba, vào mùa xuân. Đây là một buổi sáng mùa xuân, khi hơi nước quyện với sương mù tháng ba đã tạo nên hình ảnh “hoa khói”. Đây là thời gian và không gian cuộc chia tay song cũng là những biểu tượng nghệ thuật có sức gợi rất lớn. “Yên hoa” là “hoa và khói”, thường chỉ khói sóng trên sông, khói sương mù. Vào mùa xuân ở Trung Quốc, đây là hình ảnh thiên nhiên không mấy xa lạ và nó đã đi vào thơ như một hình tượng nghệ thuật đầy gợi cảm, làm thức dậy bao nỗi niềm tâm sự của thi nhân như nhà thơ Thôi Hiệu đã thổ lộ : “Yên ba giang thượng sử nhân sầu”. “Yên hoa” còn có nghĩa là cảnh đẹp mùa xuân. Lí Bạch và Mạnh Hạo Nhiên là hai người bạn tri âm, tính tình đều rất phóng khoáng, thích ngao du sơn thuỷ. Với hai tâm hồn nghệ sĩ ấy thì lầu Hoàng Hạc giữa mùa xuân là khung cảnh gợi bao thi hứng, đó là nơi lí tưởng để họ đàm đạo thi ca và nhân tình thế thái. Đó cũng là những giây phút mà cả hai đều thú vị. Thế nhưng họ lại phải chia tay nhau. Và đương nhiên mỗi người mang trong mình một nỗi niềm tâm sự. Câu thơ thứ hai đã hé mở tâm sự của người đưa tiễn. Tâm sự ấy được bộc lộ rõ hơn ở hai câu thơ cuối :
Cô phàm viễn ảnh bích không tận,
Advertisements (Quảng cáo)
Duy kiến Trường Giang thiên tế lưu.
(Bóng buồm đã khuất bầu không,
Trông theo chỉ thấy dòng sông bên trời.)
Đề tài là một cuộc chia li nhưng thực ra bài thơ lại là tâm trạng của người đưa tiễn, tức là chủ thể trữ tình của bài thơ. Vì vậy thời gian và không gian nghệ thuật của bài thơ vừa hư vừa thực, nó thiên về thời gian và không gian tâm tưởng. Được viết theo mạch cảm xúc nên bài thơ có kết cấu hướng tâm. Tâm điểm là hình ảnh người ra đi. Cuộc đưa tiễn tinh thần này được diễn ra trong một không gian mở và một thời gian vô định. Không gian mở ra trước tầm mắt của nhân vật trữ tình, từ lầu Hoàng Hạc hướng về Dương Châu, nơi người ra đi đang hướng đến. Nhưng chỉ lướt qua hình tượng “yên hoa” để dừng lại và tạo điểm nhấn ở hình ảnh “cô phàm”. Đây là một bài thơ giàu chất hội hoạ. Bài thơ như một bức tranh xinh xắn, có chiều sâu hun hút và điểm nhấn của bức tranh hay hình ảnh sắc nét nổi trội nhất của bức tranh là hình ảnh một cánh buồm lẻ loi giữa màu xanh bất tận của nước Trường Giang và của chân trời. Cánh buồm nhỏ ấy đã ở rất xa, chỉ còn là viễn ảnh, nó thật nhỏ nhoi và cô độc giữa cái bát ngát vô tận của màu xanh nối tiếp đến tận chân trời. Câu thơ thứ ba trong bài thơ tứ tuyệt có vai trò rất quan trọng. ở câu thơ này, tác giả đã tạo nên một cặp hình ảnh đối lập, một thủ pháp nghệ thuật rất quen thuộc của thơ ca cổ điển. Đó là sự đối lập giữa “cô phàm” và “bích không tận”. Cái nhỏ nhoi đơn độc của cánh buồm giữa sự mênh mông của sông nước đã gợi tả hình ảnh của người ra đi. Giữa cảnh sắc nước trời mùa xuân thơ mộng, người ra đi lại hướng đến một nơi xa xôi đầy những điều bất trắc. Cô độc là tâm trạng tất yếu của mọi cuộc chia li. Nhất là cuộc chia tay giữa những người bạn tri âm. Vậy cánh buồm cô đơn ấy là tâm trạng cô đơn của chủ thể trữ tình – người đưa tiễn. Thả hồn theo bóng người ra đi, người ở lại dõi tầm mắt theo người ra đi đến khi hình ảnh người ra đi chỉ còn là cánh buồm nhỏ rồi dần mất hút, và trước mắt chỉ còn duy nhất hình ảnh dòng Trường Giang cuộn chảy :
Duy kiến Trường Giang thiên tế lưu
(Trông theo chỉ thấy dòng sông bên trời)
Dòng Trường Giang vốn hùng vĩ, dưới cái nhìn của người ở lại càng dữ dội hơn. Nó trở thành “thiên tế lưu”. Bản dịch đã không lột tả được thần thái của hai câu thơ cuối. Cái chất “thiên tế lưu” của dòng Trường Giang thể hiện được cả sóng trong lòng người đưa tiễn, đó là một cơn sóng dữ dội. Chứng tỏ cuộc chia tay đã tác động rất mạnh đến tâm lí người ở lại. Đây là những hình ảnh thơ rất hay xuất hiện trong thơ Lí Bạch. Là nhà thơ lãng mạn, thích phóng túng, ưa thích tự do nên bên cạnh những vần thơ phá luật, nhà thơ còn thích dùng những hình ảnh có tính chất dữ dội và giàu khả năng gợi cảm. Khi miêu tả thác Lư Sơn tác giả đã dùng hình ảnh “Phi lưu trực há tam thiên xích”, còn dòng Trường Giang thì như từ trên trời đổ xuống. Cái dữ dội của dòng Trường giang dưới con mắt của người đưa tiễn có thể liên tưởng rộng hơn nữa. Phải chăng Dương Châu phồn hoa đô hội còn có cái gì đó thật dữ dằn đối với người sắp đến. Cánh buồm của Mạnh Hạo Nhiên đơn độc và vô cùng nhỏ bé trước cái vô cùng của sông nước Trường Giang và thật yếu ớt mong manh trước cái dữ dội của dòng sông ấy. Bản chất trong sáng, thẳng ngay và tấm lòng thanh bạch của những người nghệ sĩ có tâm như Lí Bạch, Mạnh Hạo Nhiên thật không dễ tồn tại yên ổn trong thế giới quan trường đầy cạm bẫy và mưu mô danh lợi. Đó có phải là nỗi lo lắng của người ở lại dành cho người ra đi khi biết rằng bạn mình đến một nơi chẳng mấy bình yên ? Sinh thời Lí Bạch là người thích ngao du sơn thuỷ song cũng luôn da diết một khát vọng giúp nước. Là người quân tử, cả Lí Bạch và Mạnh Hạo Nhiên đều đã muốn mang tài năng của mình ra giúp nước. Nhưng sau nhiều phen thất vọng vì không thực hiện được hoài bão chính trị, những khát khao ấy đã trở thành nỗi đau đời trong ông. Có thể bài thơ được sáng tác khi Lí Bạch đã vấp phải những thất bại trên đường đi tìm minh quân để phát huy tài năng, giúp ích thiên hạ. Vì vậy khi Mạnh Hạo Nhiên quyết định đến Quảng Lăng để làm quan, nỗi háo hức được phò vua giúp nước trong Lí Bạch đã phần nào bớt sôi nổi. Và thay vào đó là tâm trạng hồ nghi. Và, chính vì lẽ đó mà bên cạnh nỗi cô đơn của cả người đi và người ở lại còn là một nỗi băn khoăn day dứt. Về nội dung, bài thơ có khả năng gợi rất nhiều liên tưởng. Nhưng bao trùm lên tất cả là tâm trạng rất bộn bề của người đưa tiễn. Sức khái quát và khả năng gợi tả của bài thơ được làm nên bởi những hình thức nghệ thuật độc đáo. Bài thơ nhỏ nhắn xinh xắn như một bức tranh sơn thuỷ mà màu sắc và đường nét đều rất sắc sảo. Với hệ thống ngôn ngữ giàu hình ảnh và đậm chất hội hoạ, bài thơ đã chứng tỏ tài năng nghệ thuật của thi tiên Lí Bạch. Và cuộc chia tay tinh thần đầy lưu luyến diễn ra trong tâm tưởng người ở lại đã chứng tỏ tình bạn thắm thiết giữa hai thi nhân tài năng đời Đường.
III - Liên hệ
Tặng Uông Luân
Lí Bạch
Lí Bạch thừa chu tương dục hành
Hốt văn ngạn thượng đạp ca thanh
Đào hoa đàm thuỷ thâm thiên xích
Bất cập Uông Luân tống ngã tình.
Dịch nghĩa :
Lí Bạch cưỡi thuyền sắp sửa ra đi
Bỗng trên bờ có tiếng chân nhảy nhịp và hát
Nước đầm đào hoa sâu hàng ngàn thước
Không bằng tình Uông Luân tiễn ta.
Dịch thơ :
Lí Bạch lên thuyền sắp sửa xa
Trên bờ nhịp nhảy rộn lời ca
Đào hoa đầm rộng sâu ngàn thước
Khôn sánh tình Uông đưa tiễn ta.
(Ngô Văn Phú dịch,
Thơ Đường ở Việt Nam, NXB Hội Nhà văn, 2001)