Năm 1096, ông cáo bệnh và làm bài thơ này để báo cho mọi người biết. Cũng năm đó, ông qua đời. Bài thơ mang nội dung triết lí, đúc kết những trải nghiệm từ chính cuộc đời của nhà thơ, có tính chất như một bài kệ, vì thế gọi là bài thơ kệ.
2. Tác phẩm
Thơ thiền có một vị trí vô cùng quan trọng trong văn học Lí – Trần. Đây là thời kì thịnh trị của Phật giáo. Tư tưởng của Phật giáo ảnh hưởng nhiều đến chính sách trị nước của các bậc quân vương. Bài thơ Cáo tật thị chúng thể hiện những suy ngẫm của nhà sư về cuộc đời. Bài thơ chia làm hai phần : Phần thứ nhất nói về quy luật sinh tử của tự nhiên, phần thứ hai thể hiện tâm sự lạc quan của tác giả. Bài thơ mang vẻ đẹp trong sáng nhưng chứa đựng chất triết lí sâu sắc của thơ thiền : vừa thể hiện tình yêu, niềm tin vào cuộc sống của con người, vừa là sự ngộ giải chân lí Phật giáo của một vị chân tu trước lúc “nhập diệt”.
3. Cách đọc
Bốn câu đầu đọc chậm, giọng trầm thể hiện tính triết lí. Hai câu cuối đổi giọng, đọc sôi nổi hơn, thể hiện niềm lạc quan của tác giả.
II - Kiến thức cơ bản
Con người không thể thoát khỏi quy luật “sinh, lão, bệnh, tử” của tự nhiên. Phàm đã là con người ai cũng phải trải qua những giai đoạn đó. Nhà sư Mãn Giác đã một lần nữa khẳng định quy luật tự nhiên ấy quaCáo tật thị chúng. Tinh thần nhập thế của Phật giáo cũng được thể hiện rõ ở bài thơ này. Tâm sự của một nhà sư cũng là tâm trạng chung của tất cả mọi người trước sự xoay vần “đà định sẵn” của tự nhiên.
Mượn hình ảnh hoa nở hoa tàn để nói đến quy luật của thiên nhiên, bài thơ kệ được bắt đầu bằng hai câu thơ :
Xuân khứ bách hoa lạc,
Xuân đáo bách hoa khai.
Miêu tả sự tuần hoàn của tự nhiên nhưng bằng một cách nói hơi trái tự nhiên. Thông thường có hoa nở mới có hoa tàn nhưng ở đây nhà thơ lại nói đến hình ảnh hoa tàn trước rồi mới nói chuyện hoa nở. Phải chăng tuổi già (nhà sư viết bài thơ vào năm cuối của cuộc đời) với những dự cảm của người sắp ra đi thường nghĩ đến chuyện mất mát trước. Tác giả của bài thơ là một nhà sư, và theo quan niệm của đạo Phật, cuộc đời là những vòng luân hồi nối tiếp nhau, không có sự kết thúc thật sự. Điểm kết của vòng đời này là sự bắt đầu của một vòng đời khác. Hình ảnh “hoa” và “xuân” là hai điểm nhấn của câu thơ, vừa nhấn về ngữ điệu, vừa nhấn về hình ảnh. Cách sắp xếp các hình ảnh đối nhau càng làm tăng sự đối lập giữa sự mất đi và sinh ra của muôn hoa và vạn vật.
Cách sắp xếp “hoa lạc” trước “hoa khai”, có lẽ là để thể hiện tính chất luân hồi. “Tàn” là sự bắt đầu của “nở”, vì thế tàn không có nghĩa là chấm hết. Điểm tích cực của tư tưởng luân hồi chính là ở đây, nó thổi vào cuộc sống của con người tinh thần lạc quan. Tư tưởng Thiền học được thể hiện ở ngay cách sắp xếp hình ảnh thơ này. Sự trôi chảy của thời gian là tự nhiên và rất vô tình, theo dòng thời gian, con người cũng phải thay đổi. Từ quy luật biến đổi của thiên nhiên dẫn đến quy luật biến đổi của đời người :
Sự trục nhãn tiền quá,
Lão tòng đầu thượng lai.
Con người cũng như vạn vật, phải thay đổi theo quy luật của tự nhiên. Nhưng khác với vạn vật, con người nắm bắt được quy luật ấy và chủ động trước mọi sự. Song nếu cây cối có sự luân hồi thì con người lại không, dù theo triết lí của đạo Phật, con người cũng có kiếp luân hồi, có kiếp trước, kiếp sau. Hoa tàn, hoa nở là biểu tượng cho sự mất đi và hồi sinh của vạn vật thì mái tóc bạc biểu tượng cho tuổi già. Con người không thể thoát khỏi vòng sinh, lão, bệnh, tử và cũng không có kiếp luân hồi. Vì vậy con người thường nuối tiếc khi thời gian trôi đi :
Advertisements (Quảng cáo)
Xuân đang tới nghĩa là xuân đương qua
Xuân còn non nghĩa là xuân sẽ già
Và xuân hết nghĩa là tôi cũng mất
… Còn trời đất nhưng chẳng còn tôi mãi
Nên bâng khuâng tôi tiếc cả đất trời.
(Xuân Diệu, Vội vàng)
Có tâm tư gì đó tương tự như vậy đằng sau hai câu thơ của Mãn Giác thiền sư. Song nỗi buồn man mác đó lập tức qua ngay khi hai câu thơ tiếp theo có sự xuất hiện đột ngột của nhành mai cuối xuân :
Mạc vị xuân tàn hoa lạc tận
Đình tiền tạc dạ nhất chi mai
Cành mai là điểm sáng, điểm tươi tắn nhất của bức tranh xuân tàn. Nó xuất hiện đột ngột như chứng tỏ sức sống mãnh liệt của mình. Cành mai ấy là cành mai của hiện thực và cũng là cành mai trong tâm tưởng, trong tinh thần của nhà thơ. Tưởng như mùa xuân đã qua và “hoa lạc tận” nhưng vẫn còn đó “nhất chi mai”. Mai, trong quan niệm của người xưa, là một loại trong bộ “Tứ quý” (tùng, cúc, trúc, mai), là biểu tượng cho sự thanh cao. Không phải là hoa gì khác mà là một cành mai, biểu tượng cho mùa xuân, mùa của trăm hoa khoe sắc, của muôn cây đâm chồi nảy lộc. Rất có thể, sự xuất hiện đầy bất ngờ của một cành mai cuối xuân đã khơi nguồn cảm hứng để nhà thơ viết bài thơ kệ này, nhưng cũng có thể nhà thơ mượn một cành mai trong tưởng tượng để thể hiện tinh thần lạc quan, tin tưởng vào sự bất diệt của cái đẹp, của sự sống. Theo tình huống nào thì cành mai vẫn là một biểu tượng đẹp cho tinh thần của con người, con người có ý chí kiên cường, vượt lên sự nghiệt ngã của quy luật tự nhiên.
Hai câu thơ cuối đối lập với bốn câu đầu cả về hình thức và nội dung. Bốn câu thơ đầu khẳng định quy luật bất biến của cuộc sống – vạn vật có sinh có mất, và không gì cưỡng lại được, nhất là con người. Hai câu cuối lại khẳng định điều ngược lại – vẫn có một cành mai nở vào độ xuân tàn, hiện hữu hoàn toàn trái quy luật. Cành mai xuất hiện bất ngờ như sự khẳng định rằng không có gì là bất biến. Và con người, với ý chí và nghị lực phi thường của mình, vẫn có thể vượt qua được quy luật. “Lão tòng đầu thượng lai” tưởng đã là điểm kết thúc của một đời người. Nhưng niềm lạc quan, ý chí và cả niềm tin tôn giáo đã giúp nhà sư thấy được “Đình tiền tạc dạ nhất chi mai”.
Cáo tật thị chúng là một bài thơ thiền, và vậy tất nhiên có gửi gắm những quan niệm, triết lí Thiền học. Mãn Giác thiền sư viết bài thơ này khi ông sắp qua đời, vì thế nó thể hiện sự ngộ giải chân lí Phật giáo. Nhà Phật vẫn tin rằng, con người có thể sẽ chiến thắng được quy luật sinh tử của tự nhiên nếu tu thành chính quả, nếu chiến thắng được những dục vọng cá nhân và giác ngộ. Là một bài thơ kệ, là tác phẩm ra đời vào thời kì mà văn học dân tộc chưa có được bề dày thành tựu nghệ thuật, song Cáo tật thị chúngđã thể hiện một tầm kết tinh nghệ thuật đáng tự hào. Bài thơ chỉ có sáu câu nhưng đã truyền tải được một nội dung triết lí sâu sắc. Giá trị ấy của thi phẩm được làm nên bởi tài năng sử dụng, lựa chọn ngôn từ, hình ảnh và sự sắp xếp kết cấu gợi cảm của nhà thơ. Trước hết đó là nghệ thuật sử dụng và sắp xếp từ ngữ, mỗi từ ngữ đều chứa đựng khả năng biểu hiện ý tứ sâu sắc, “bách hoa lạc” (trăm hoa rụng), “bách hoa khai” (trăm hoa đua nở), chỉ một từ hoa nhưng là biểu tượng cho vạn vật, là biểu tượng cho mùa xuân đến, mùa xuân đi. Nghệ thuật đối điệp cũng được phát huy cao độ để tạo nên tính hàm súc cho bài thơ. Mỗi cặp câu thơ là một cặp đối lập, nó biểu hiện cho quy luật sinh tử song tồn, cho sự trôi đi rất nhanh và vô tình của thời gian. Bốn câu đầu và hai câu sau là một cặp đối, một bên là quy luật nghiệt ngã tưởng như không gì chống lại nổi của tự nhiên, một bên là sự xuất hiện bất chấp quy luật “hoa lạc tận” của “nhất chi mai”. Mùa xuân của thiên nhiên đã trôi qua nhưng mùa xuân và sức sống trong mỗi con người vẫn hiên ngang và cứng cỏi. Hai câu thơ bảy chữ kết thúc bài thơ tạo nên một thế đứng vững vàng. Đó là thế đứng của con người đã giác ngộ được chân lí của sự sống : quy luật của tự nhiên là quy luật của vạn vật trong trời đất, song với tinh thần lạc quan, ý chí sắt đá, con người có thể vượt lên trên quy luật nghiệt ngã ấy.
Sự phát triển thịnh trị của Phật giáo thời Lí cùng với tư tưởng “nhập thế” tích cực, đã sản sinh cho dân tộc ta những nhà sư tài ba, tâm huyết với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước và đóng góp cho văn học dân tộc những tác phẩm có giá trị triết lí sâu sắc. Cáo tật thị chúng đã chứng tỏ sự khởi đầu đáng tự hào của văn học dân tộc.
III - Liên hệ
“Thiền sư Mãn Giác chỉ để lại một bài kệ Cáo tật thị chúng đọc trước lúc mất. Bài kệ sáu câu, bốn câu đầu năm chữ, hai câu sau bảy chữ, ý tưởng minh bạch và hàm súc : Lẽ thường xuân qua hoa rụng, xuân đến hoa nở ; đời người cũng vậy, thời gian càng trôi, cái già càng đến. Nhưng đừng tưởng tất cả chỉ có thế… Bài thơ như một bức tranh tươi tắn, và cũng như một dấu hỏi, từng treo lơ lửng trước mắt nhiều thế hệ độc giả. Những ý tưởng hàm súc kia chỉ đơn thuần là triết lí tuần hoàn của nhà Phật ? Hay chính là một quan niệm mới mẻ về lẽ sống, một thái độ lạc quan coi sự sống là bất diệt, vượt lên cao hơn triết lí tuần hoàn ?”