Sau đó, ông đi tìm hiểu một số nước châu Âu, năm 1922 trở về nước viết báo và diễn thuyết chống đế quốc. Năm 1939, bị kết án, đi đày ở Côn Lôn, ông bị hành hạ đến kiệt sức và chết trong tù.
2. Nguyễn An Ninh để lại nhiều bài văn chính luận đặc sắc, trong đó có bài Tiếng mẹ đẻ - nguồn giải phóng các dân tộc bị áp bức (1925). Với tinh thần trách nhiệm của một nhà văn, nhà báo, ông viết bài báo với mục đích đánh thức ý thức dân tộc trong mỗi người Việt Nam. Ông đã dùng những lí lẽ sắc bén, lập luận chặt chẽ để chỉ ra và thuyết phục người nghe về ý nghĩa quan trọng của việc bảo vệ và phát triển tiếng Việt.
3. Tiếng mẹ đẻ - nguồn giải phóng các dân tộc bị áp bức là tác phẩm tiêu biểu cho thể văn chính luận, một thể văn coi trọng lí luận, trình bày những vấn đề có ý nghĩa xã hội rộng lớn. Ngay ở nhan đề, bài báo đã chỉ ra vai trò quan trọng và thiêng liêng của tiếng Việt, đó là : nguồn giải phóng của dân tộc.
4. Bài báo có bố cục chặt chẽ, khoa học thể hiện khả năng tư duy lôgíc của một nhà báo hoạt động chính trị ; vì vậy, nó vừa có sự hấp dẫn của báo chí, vừa có tính thuyết phục, tư tưởng của một bài diễn thuyết chính trị.
- Mở đầu bài viết, tác giả phê phán một số người do thiếu hiểu biết, thích khoe khoang nên đã vô tình “từ bỏ văn hoá cha ông và tiếng mẹ đẻ”.
- Phần tiếp theo, tác giả thuyết minh cho tư tưởng nòng cốt của bài viết : Tiếng mẹ đẻ là nguồn giải phóng các dân tộc bị áp bức. Với lối viết ngắn gọn, súc tích, tác giả đã chỉ ra một cách cụ thể ý nghĩa của tiếng mẹ đẻ, đồng thời khẳng định và chứng minh rằng : Tiếng Việt rất giàu có…
- Phần kết thúc, tác giả trình bày vai trò hướng đạo của giới trí thức trong việc phát triển ngôn ngữ dân tộc, quan niệm của mình về mối quan hệ giữa tiếng mẹ đẻ và tiếng nước ngoài. Cốt lõi của quan điểm đó là : học tiếng nước ngoài trên tinh thần tiếp thu lựa chọn tinh hoa để làm giàu có hơn cho ngôn ngữ nước mình.
5. Đọc chậm, nhấn mạnh các lập luận của tác giả.
II - Kiến thức cơ bản
Tiếng mẹ đẻ - nguồn giải phóng các dân tộc bị áp bức là tác phẩm tiêu biểu cho thể văn chính luận. Cũng có thể coi bài diễn thuyết này của tác giả Nguyễn An Ninh là một tác phẩm xuất sắc của nền báo chí cách mạng Việt Nam. Là một trí thức Tây học, với lòng yêu nước và tinh thần trách nhiệm, nhà báo Nguyễn An Ninh đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ của một người Việt Nam vốn dòng Lạc hồng. Ông đã xác định rõ và thực hiện tốt nhiệm vụ “hướng đạo” của một trí thức chân chính.
Trong những năm đầu thế kỉ XX, phần lớn đội ngũ trí thức Việt Nam xuất thân từ nhà trường Tây học. Họ được học ở trường Tây nên dù ít hay nhiều, họ đều chịu ảnh hưởng của tư tưởng nô dịch, sùng bái phương Tây. Những kẻ học không đến nơi đến chốn, tư tưởng không đủ sâu hoặc thiếu tình cảm với dân tộc đã mang một tư tưởng rất đáng phê phán : coi trọng Tây phương và coi thường dân tộc mình. Trong hoàn cảnh ấy, nhà báo Nguyễn An Ninh đã viết bài báo này để đánh thức những kẻ đang có những hiểu biết rất nông cạn về văn hoá, chỉ ra cho họ thấy sai lầm của mình. Từ đó, giúp họ ý thức rõ hơn trách nhiệm đối với dân tộc, cụ thể là trách nhiệm đối với việc bảo vệ, gìn giữ và phát triển ngôn ngữ dân tộc. Bởi tiếng nói là linh hồn, là tinh hoa của nền văn hoá dân tộc.
Tác giả bài viết đã dùng lời lẽ rất sắc sảo thể hiện thái độ dứt khoát, mạnh mẽ khi phê phán những kẻ thiếu hiểu biết mà vô tình coi thường dân tộc mình. “Nhiều người An Nam thích bập bẹ năm ba tiếng Tây hơn là diễn tả ý tưởng mạch lạc bằng tiếng nước mình”. Ngay ở câu mở đầu, tác giả đã phê phán những kẻ sùng ngoại, không thạo tiếng Tây nhưng lại thích ra vẻ người Tây. Tác giả đã dùng hai cụm từ có ý nghĩa đối nhau để chỉ ra cái vô lí của những kẻ thích dùng tiếng Tây mà khoe mẽ : bập bẹ năm ba tiếng Tây và diễn tả ý tưởng mạch lạc. Sắc thái châm biếm thể hiện rõ hơn, gay gắt hơn ở những câu tiếp theo : “Hình như đối với họ […] họ đã được đào tạo theo kiểu Tây phương”. Tác giả đã lựa chọn những từ ngữ, chi tiết giàu khả năng biểu cảm để bộc lộ thái độ của mình trước hiện tượng học đòi một cách thiếu hiểu biết của những kẻ luôn muốn tỏ ra là có văn hoá. Tác giả đã thể hiện rất rõ quan điểm của mình khi đưa ra những lí lẽ đanh thép và lập luận chặt chẽ, dẫn chứng cụ thể về hiện tượng lai căng, học đòi một cách thiếu văn hoá. Tác giả đã không e dè khi sử dụng những cụm từ cóp nhặt những cái tầm thường,mù tịt về văn hoá, kiến trúc và trang trí lai căng, được hun đúc theo cái mà những người ở Đông Dương gọi là văn minh Pháp, chẳng có được một thứ văn minh nào… Tác giả đã thể hiện khá gay gắt thái độ phê phán đối với những kẻ quá sùng Tây, học đòi Tây một cách thiếu học thức. Ông đã tổng kết đánh giá đồng thời thể hiện thái độ của mình trong câu : “Việc từ bỏ văn hoá cha ông và tiếng mẹ đẻ phải làm cho mọi người An Nam tha thiết với giống nòi lo lắng”.
Sau khi chỉ ra những sai lầm trong suy nghĩ của nhiều người An Nam đương thời về việc sử dụng tiếng nói dân tộc, tác giả bài viết tiếp tục thể hiện quan điểm và thực hiện mục đích của mình bằng cách chứng minh vai trò, ý nghĩa quan trọng của tiếng mẹ đẻ. Tác giả đã dùng dẫn chứng cụ thể và thuyết phục để chứng minh “tiếng mẹ đẻ là nguồn giải phóng các dân tộc bị áp bức”. Luận điểm nghe có vẻ trừu tượng nhưng đã được chứng minh một cách cụ thể : “Tiếng nói là người bảo vệ quý báu nhất nền độc lập của các dân tộc [...]. Nếu người An Nam hãnh diện giữ gìn tiếng nói của mình và ra sức làm cho tiếng nói ấy phong phú hơn để có khả năng phổ biến tại An Nam các học thuyết đạo đức và khoa học của châu âu, việc giải phóng dân tộc An Nam chỉ còn là vấn đề thời gian”. Để làm tăng khả năng tác động tới người nghe, người đọc, tác giả khái quát : “Vì thế, đối với người An Nam chúng ta, chối từ tiếng mẹ đẻ đồng nghĩa với chối từ sự tự do của mình…”. Quan điểm ấy hoàn toàn đúng đắn và đủ sức thuyết phục. Một dân tộc tự do không chỉ là tự do về chủ quyền, về địa lí, về quyền sống mà một dân tộc thực sự tự do, độc lập là dân tộc có nền văn minh riêng với bản sắc văn hoá riêng của mình. Bởi nô dịch về văn hoá sẽ dẫn đến nô dịch về mọi phương diện. Văn hoá, mà trong đó ngôn ngữ là yếu tố quan trọng, đã bị lai căng, đã mất đi bản sắc hoặc bị huỷ diệt thì dân tộc đó đã đánh mất mình và trở thành kẻ phụ thuộc, kẻ “sống nhờ ở đợ”. Cũng chính vì vậy mà những kẻ đi xâm lược luôn rất quan tâm đến vấn đề nô dịch văn hoá, chăm lo cho chính sách nô dịch văn hoá.
Để giải quyết triệt để về tư tưởng, đấu tranh đến cùng với những luận điệu phản dân tộc, tác giả tiếp tục đưa ra những lập luận chặt chẽ và lí lẽ sắc bén. Ông đã bác bỏ một cách dứt khoát quan niệm “tiếng nước mình nghèo nàn”, cho rằng “Lời trách cứ này không có cơ sở nào cả”. Theo ông, đó chỉ là lí lẽ “để biện minh cho việc từ bỏ tiếng mẹ đẻ”, không phải tiếng mẹ đẻ nghèo mà là do họ thiếu hiểu biết về ngôn ngữ dân tộc mà thôi. Không lí luận nhiều, tác giả chỉ đưa ra liên tiếp ba câu hỏi tu từ :
“Ngôn ngữ của Nguyễn Du giàu hay nghèo ?”
“Vì sao người An Nam… tác phẩm tương tự ?”
“Phải quy lỗi cho sự nghèo nàn của ngôn ngữ hay sự bất tài của con người ?”
Những câu hỏi tu từ đã thể hiện thái độ dứt khoát và quyết liệt của người viết đối với những kẻ cho là ngôn ngữ dân tộc ta nghèo nàn. Có thể dễ dàng nhận thấy quan niệm của Nguyễn An Ninh về việc sử dụng ngôn ngữ. Ngôn ngữ giàu hay nghèo là do khả năng và trình độ của người sử dụng. Ngôn ngữ nghèo với những người thiếu hiểu biết về ngôn ngữ và không hiểu rõ về điều mình muốn trình bày. Đây là tư tưởng lớn và có ý nghĩa quan trọng không chỉ đối với vấn đề chính trị mà ông đang trình bày mà còn là một quan điểm đúng đắn để người sử dụng tiếng nói làm phương tiện giao tiếp quan tâm suy nghĩ. Cách lập luận của tác giả ở đây không chỉ thuyết phục mà còn khiến người đọc phải trăn trở, phải suy nghĩ.
Đoạn kết thúc đã giải quyết một cách toàn diện tư tưởng của bài viết. Phần đầu, tác giả phê phán quan điểm sùng tiếng Tây, nhưng nếu chỉ dừng lại ở đó thì chưa đủ. Bởi vì, bảo vệ và gìn giữ tiếng nói dân tộc không có nghĩa là từ chối sử dụng các ngôn ngữ khác. Tác giả Nguyễn An Ninh đã kết thúc bài viết của mình bằng việc giải quyết mối quan hệ giữa tiếng mẹ đẻ và ngôn ngữ của dân tộc khác. Việc học thêm ngôn ngữ của dân tộc khác là cần thiết, nhất là giới trí thức : “vai trò hướng đạo của giới trí thức chúng ta buộc họ phải biết ít nhất một ngôn ngữ châu Âu để hiểu được châu Âu”. Vậy, tiếng nước ngoài cũng rất cần thiết với mọi người, “Tuy nhiên, sự cần thiết phải biết một ngôn ngữ châu Âu hoàn toàn không kéo theo chuyện từ bỏ tiếng mẹ đẻ. Ngược lại, thứ tiếng nước ngoài mà mình học được phải làm giàu cho ngôn ngữ nước mình”. Về điều này, chúng ta nên tự hào và nên học tập cha ông chúng ta, những người đã làm cho ngôn ngữ của chúng ta giàu có như ngày nay. Trải qua hàng ngàn năm Bắc thuộc, suốt thời phong kiến, cha ông ta sử dụng tiếng Hán trong nhà trường, trong công việc hành chính. Vậy mà, tiếng Việt không bị Hán hoá, ngược lại, quá trình Việt hoá tiếng Hán lại đạt được thành tựu đáng tự hào mà ngày nay chúng ta đang được hưởng thụ. Quan điểm của Nguyễn An Ninh thể hiện trong bài viếtTiếng mẹ đẻ - nguồn giải phóng các dân tộc bị áp bức đến nay vẫn còn nguyên giá trị. Tiếng Việt cần phải được bảo vệ và gìn giữ.
Tiếng mẹ đẻ - nguồn giải phóng các dân tộc bị áp bức là một văn bản chính luận xuất sắc từ đề tài, nội dung đến hình thức thể hiện. Bài viết thể hiện rõ chính kiến của người viết về một vấn đề chính trị – xã hội bằng một hệ thống lập luận chặt chẽ, lí lẽ sắc bén, ngôn ngữ giàu sắc thái biểu cảm… Bài viết đã chứng minh khả năng thuyết phục xuất sắc của một nhà báo và tâm huyết với dân tộc của một nhà hoạt động chính trị.
III - liên hệ
Không chỉ phong phú về thanh âm và huyền diệu về sắc độ, không chỉ dồi dào khả năng biểu cảm và hàm súc, gợi hình ; tiếng Việt là biểu hiện thiêng liêng của tâm hồn Việt, người Việt và văn hoá Việt Nam. Điều đó được thể hiện tinh tế và đặc sắc trong bài “Tiếng Việt” của nhà thơ Lưu Quang Vũ :
Tiếng mẹ gọi trong hoàng hôn khói sẫm
Cánh đồng xa cò trắng rủ nhau về
Có con nghé trên lưng bùn ướt đẫm
Nghe xạc xào gió thổi giữa cau tre.
Tiếng kéo gỗ nhọc nhằn trên bãi nắng
Tiếng gọi đò sông vắng bến lau khuya
Tiếng lụa xé đau lòng thoi sợi trắng
Tiếng dập dồn nước lũ xoáy chân đê.
Tiếng cha dặn khi vun cành nhóm lửa
Khi hun thuyền, gieo mạ, lúc đưa nôi
Tiếng mưa dội ào ào trên mái cọ
Nón ai xa thăm thẳm ở bên trời.
“Đá cheo leo trâu trèo trâu trượt”
Đi mòn đàng dứt cỏ đợi người thương
Đây muối mặn gừng cay lòng khế xót
Ta như chim trong tiếng Việt như rừng.
Chưa chữ viết đã vẹn tròn tiếng nói
Vầng trăng cao đêm cá lặn sao mờ
Ôi tiếng Việt như đất cày, như lụa
óng tre ngà và mềm mại như tơ.
Advertisements (Quảng cáo)
Tiếng tha thiết nói thường nghe như hát
Kể mọi điều bằng ríu rít âm thanh
Như gió nước không thể nào nắm bắt
Dấu huyền trầm, dấu ngã chênh vênh.
Dấu hỏi dựng suốt ngàn đời lửa cháy
Một tiếng vườn rợp bóng lá cành vươn
Nghe mát lịm ở đầu môi tiếng suối
Tiếng heo may gợi nhớ những con đường.
Một đảo nhỏ xa xôi ngoài biển rộng
Vẫn tiếng làng tiếng nước của riêng ta
Tiếng chẳng mất khi Loa thành đã mất
Nàng Mị Châu quỳ xuống lạy cha già.
Tiếng thao thức lòng trai ôm ngọc sáng
Dưới cát vùi sóng dập chẳng hề nguôi
Tiếng tủi cực kẻ ăn cầu ngủ quán
Thành Nguyễn Du vằng vặc nỗi thương đời.
… Buồm lộng sóng xô, mai về trúc nhớ
Phá cũi lồng vời vợi cánh chim bay
Tiếng nghẹn ngào như đời mẹ đắng cay
Tiếng trong trẻo như hồn dân tộc Việt.
Mỗi sớm dậy nghe bốn bề thân thiết
Người qua đường chung tiếng Việt cùng tôi
Như vị muối chung lòng biển mặn
Như dòng sông thương mến chảy muôn đời.
Ai thuở trước nói những lời thứ nhất
Còn thô sơ như mảnh đá thay rìu
Điều anh nói hôm nay, chiều sẽ tắt
Ai người sau nói tiếp những lời yêu ?
Ai phiêu bạt nơi chân trời góc biển
Có gọi thầm tiếng Việt mỗi đêm khuya
Ai ở phía bên kia cầm súng khác
Cùng tôi trong tiếng Việt quay về.
Ôi tiếng Việt suốt đời tôi mắc nợ
Quên nỗi mình quên áo mặc cơm ăn
Trời xanh quá, môi tôi hồi hộp quá
Tiếng Việt ơi, tiếng Việt ân tình.