1. Liên Xô
a. Công cuộc khôi phục kinh tế (1945 - 1950)
Liên Xô là nước chịu tổn thất nặng nề nhất trong Chiến tranh thế giới thứ hai: khoảng 27 triêu người chết, 1710 thành phố, hơn 7 vạn làng mạc, gần 32000 xí nghiệp bị tàn phá nặng nề.
Với tinh thần tự lực tự cường, nhân dân Liên Xô đã hoàn thành thắng lợi kế hoạch 5 năm khôi phục kinh tế (1946 - 1950) trong vòng 4 năm 3 tháng.
Công nghiệp được phục hồi vào năm 1947. Đến năm 1950, tổng sản lượng công nghiệp tăng 73% so với mức trước chiến tranh (kế hoạch dự kiến là 48%) hơn 6200 xí nghiệp được phục hồi hoặc xây dựng mới đi vào hoạt động.
Sản xuất nông nghiệp năm 1950 đã đạt mức trước chiến tranh.
Khoa học - kỹ thuật phát triển nhanh chóng. Năm 1949, Liên Xô đã chế tạo thành công bom nguyên tử, phá thế độc quyền vũ khí nguyên tử của Mĩ.
b. Liên Xô tiếp tục xây dựng chủ nghĩa xã hội (từ năm 1950 đến nửa đầu những năm 70)
Trong thời gian này, Liên Xô đã thực hiện nhiều kế hoạch dài hạn nhằm tiếp tục xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội. Các kế hoạch này về cơ bản đều hoàn thành với nhiều thành tựu to lớn.
Liên Xô trở thành cường quốc công nghiệp đứng thức hai trên thế giới (sau Mĩ), một số ngành công nghiệp có sản lượng cao vào loại nhất thế giới như dầu mỏ, than,thép... Liên Xô đi đầu trong công nghiệp vũ trụ, công nghiệp điện hạt nhân.
Tuy gặp khó khăn, sản xuất nông nghiệp vẫn đạt được nhiều thành tựu. Sản lượng nông phẩm trong những năm 60 tăng trung bình hằng năm là 16%.
Về khoa học - kỹ thuật, năm 1957 Liên Xô là nước đầu tiên phóng thành công vệ tinh nhân tạo cua Trái Đất. Năm 1961, Liên Xô đã phóng con tàu vũ trụ đưa nhà du hành vũ trụ I. Gagarin bay vòng quanh Trái Đất, mở đầu kỉ nguyên chinh phục vũ trụ của loài người.
Về xã hội, đất nước Liên Xô cũng có nhiều biến đổi. Tỉ lệ công nhân chiếm hơn 55% số người lao đông trong cả nước. Trình độ học vấn của người dân không ngừng được nâng cao.
Về đối ngoại, Liên Xô thực hiện chính sách bảo vệ hòa bình thế giới, ủng hộ phong trào giải phóng dân tộc và giúp đỡ các nước xã hội chủ nghĩa.
2. Các nước Đông Âu
a. Sự ra đời các nhà nước dân chủ nhân dân Đông Âu
Advertisements (Quảng cáo)
Trong những năm 1944 - 1945, cùng với cuộc tiến công truy kích quân đội phát xít của Hồng quân Liên Xô, nhân dân các nước Đông Âu đã nổi dậy giành chính quyền thành lâp nước dân chủ nhân dân.
Cộng hòa Nhân dân Ba Lan (1944), Cộng hòa Nhân dân Rumani (1944), Cộng hòa Nhân dân Hungari (1945), Cộng hòa Tiệp Khắc (1945), Liên bang cộng hòa dân chủ Nhân dân Nam Tư (1945), Cộng hòa Nhân dân Anbani (1945), Cộng hòa Bungari (1946).
Riêng ở Đông Đức , với sự giúp đỡ của Liên Xô, tháng 10 - 1949 nước Cộng hòa Dân chủ Đức được thành lập.
Nhà nước dân chủ nhân dân ở các nước Đông Âu là chính quyền liên hiệp gồm đại biểu các giai cấp, các đảng phái chính trị đã từng tham gia Mặt trận dân tộc thống nhất chống phát xít. Trong những năm 1945 - 1949, các nhà nước dân chủ nhân dân tiến hành cải cách ruộng đất, xóa bỏ chế độ chiếm hữu ruộng đất của địa chủ, quốc hữu hóa các xí nghiệp lớn của nước ngoài, ban hành các quyền tưh di, dân chủ, cải thiện và nâng cao đời sống nhân dân. Chính quyền nhân dân được củng cố vai trò lãnh đạo của các đảng cộng sản ngày càng được khẳng định.
b. Công cuộc xây dựng chủ ghĩa xã hội ở các nước Đông Âu
Trong những năm 1950 - 1975, các nước Đông Âu đã thực hiện nhiều kế hoạch 5 năm nhằm xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội trong tình hình khó khăn phức tạp. Các nước này đều xuất phát từ trình độ phát triển thấp (trừ Tiệp Khắc, Cộng hòa dân chủ Đức), lại bị các nước đế quốc bao vây về kinh tế và các thế lực phản động trong nước ra sức chống phá. Với sự giúp đỡ có hiệu quả của Liên Xô và sự nỗ lực vươn lên của nhân dân, các nước Đông Âu đã giành được nhiều thành tựu to lớn.
Các nước Đông Âu đã tiến hành xây dựng nền công nghiệp, điện khí hóa toàn quốc, nâng sản lượng công nghiệp lên gấp hàng chục lần. Nông nghiệp phát triển nhanh chóng,đáp ứng nhu cầu lương thực và thực phẩm của nhân dân. Trình độ khoa hoc - kỹ thuật được nâng lên rõ rệt. Từ những nước nghèo, các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu đã trở thành các quốc gia - nông nghiệp.
3. Quan hệ hợp tác giữa các nước xã hội chủ nghĩa ở châu Âu
a. Quan hệ kinh tế khoa học - kỹ thuật
Ngày 8 - 1 - 1949, Hội đồng tương trợ kinh tế (thường gọi tắt là SEV) được thành lập với sự tham gia của cac nước xã hội chủ nghĩa ở châu Âu là : Liên Xô, Anbani, Ba Lan, Bungari, Hungari, Tiệp Khắc, Rumani; năm 1950, kết nạp thêm Cộng hòa dân chủ Đức. Mục tiêu của SEV là tăng cường sự hợp tác giữa các nước xã hội chủ nghĩa, thúc đẩy sự tiến bộ về kinh tế và kỹ thuật, thu hẹp dần sự chênh lệch về trình độ phát triển kinh tế giữa các nước thành viên, không ngừng nâng cao mức sống của nhân dân.
Từ năm 1951 đến năm 1973, tốc độ tăng trưởng sản xuất công nghiệp bình quân hằng năm của các nước trong khối SEV là khoảng 10%, tổng sản phẩm trong nước (GDP) của các nước thành viên năm 1973 tăng 5,7 lần so với năm 1950. Liên Xô giữ vai trò quyết định trong khối SEV. Từ năm 1949 đến năm 1970, Liên Xô đã viện trợ không hoàn lại cho các nước thành viên tới 20 tỉ rúp.
Tuy nhiên, Hội đồng tương trợ kinh tế cũng bộc lộ một số thiếu sót như : không hòa nhập với đời sống kinh tế của thế giới chưa coi trọng đầy đủ việc áp dụng những tiến bộ khoa học và công nghệ, sự hợp tác gặp nhiều trở ngại do cơ chế quan liêu, bao cấp.
b. Quan hệ chính trị - quân sự
Ngày 14 - 5 - 1955, đại biểu của các nước Anbani, Ba Lan, Cộng hòa dân chủ Đức, Hungari, Liên Xô, Tiệp Khắc, Rumani hợp tại Vacsava cùng kí kết Hiệp ước hữu nghị hợp tác tương trợ đánh dấu sự ra đời của Tổ chức Hiệp ước Vacsava. Mục tiêu là thành lâp liên minh phòng thủ về quân sự và chính trị của các nước xã hội chủ nghĩa châu Âu.
Tổ chức Hiệp ước Vacsava có vai trò to lớn trong việc giữ gìn hòa bình, an ninh ở châu Âu và thế giới. Sự lớn mạnh của Liên Xô và các nước thành viên đã tạo nên thế cân bằng về sức mạnh quân sự giữa các nước xã hội chủ nghĩa và các nước tư bản chủ nghĩa đầu những năm 70.