Câu hỏi/bài tập:
Màu hạt của đậu Hà Lan có hai kiểu hình là vàng và xanh. Có hai gene ứng với hai kiểu hình này là allele trội A và allele lặn a. Hình dạng hạt của đậu Hà Lan có hai kiểu hình là hạt trơn và hạt nhăn. Có hai gene ứng với hai kiểu hình này là allele trội B và allele lặn b. Khi cho lai hai cây đậu Hà Lan, cặp gene của cây con lấy ngẫu nhiên một gene từ cây bố và một gene từ cây mẹ. Giả sử cả cây bố và cây mẹ có kiểu hình “Hạt vàng và trơn”. Cây bố có kiểu gene là (Aa, Bb), cây mẹ có kiểu gene là (Aa, Bb). Tính xác suất để cây con có kiểu hình như cây bố và cây mẹ.
Cách tính xác suất của một biến cố E:
Bước 1. Mô tả không gian mẫu của phép thử. Từ đó xác định số phần tử của không gian mẫu \(\Omega \).
Bước 2. Chứng tỏ các kết quả có thể của phép thử là đồng khả năng.
Bước 3. Mô tả kết quả thuận lợi của biến cố E. Từ đó xác định số kết quả thuận lợi cho biến cố E.
Bước 4. Lập tỉ số giữa số kết quả thuận lợi cho biến cố E với số phần tử của không gian mẫu \(\Omega \).
Advertisements (Quảng cáo)
Có 4 kiểu gene ứng với màu hạt của cây con là AA; Aa; aA; aa.
Có 4 kiểu gene ứng với hình dạng hạt của cây con là BB; Bb; bB; bb.
Ta liệt kê được tất cả các kết quả có thể của phép thử bằng cách lập bảng sau:
Mỗi ô là một kết quả có thể. Không gian mẫu là tập hợp của 16 ô trong bảng trên. Khi đó, có 16 kết quả có thể là đồng khả năng.
Gọi E là biến cố: “Cây con có hạt vàng và trơn”.
Cây con có hạt vàng và trơn nếu trong gene màu hạt có ít nhất 1 allele trội A và trong gene dạng hạt có ít nhất 1 allele trội B.
Có 9 kết quả thuận lợi cho biến cố E là: (AA, BB); (AA, Bb); (AA, bB); (Aa, BB); (Aa, Bb); (Aa, bB); (aA, BB); (aA, Bb); (aA, bB).
Vậy \(P\left( E \right) = \frac{9}{{16}}\).