Bi kịch tinh thần của nhân vật Hộ trong Đời thừa là bi kịch của một nhà văn – một trí thức giữa “cơn dâu bể” của cuộc đời, giữa một xã hội “chó đểu” (Vũ Trọng Phụng) – Nhà văn ấy giữ được phẩm giá của mình, ý thức được “thiên chức” cao cả của mình vậy mà đành bó tay bất lực.
Có thể nói, bi kịch đầu tiên trong tấn bi kịch tinh thần của cuộc đời Hộ là bi kịch về những giấc mộng văn chương. Hộ đã đặt văn chương lên trên hết: Văn chương dường như chính là khát vọng lớn nhất của đời anh. Anh muốn trở thành nhà văn chân chính – nhà văn viết “mở hồn đón lấy những vang vọng của đời”. Anh mơ ước đến một ngày anh sẽ viết được một tác phẩm lớn chung cho cả loài người. “Nó đề cập đến những vấn đề bức xúc của cả xã hội của cả nhân loại. Nó nói được những cái lớn lao, mạnh mẽ vừa đau đớn vừa phấn khởi, nó ca tụng lòng thương tình bác ái, sự công bình. Nó làm cho người gần người hơn.” Và nhất định anh sẽ giật giải Nobel ! Đó là cuốn tiểu thuyết vĩ đại trong đời viết văn của anh. Nó sẽ làm rạng danh cho anh, cho nền văn học nước nhà. Đó quả là ước mơ chính đáng ! Không phải người nghệ sĩ nào cũng khao khát như vậy khi bước vào con đường văn chương đầy khổ ải. Nhà văn phải biết xây ước mơ đẹp, và khát vọng của Hộ là khát vọng mạnh mẽ nhất và đẹp nhất. Hộ xác định đúng con đường cho mình – xác định tư tưởng cho mình.
Anh không sa vào những mơ mộng về nghệ thuật – nghệ thuật là “ánh trăng huyền ảo” (như Điền tron Trăng sáng). Anh thấy ánh trăng của nghệ thuật biết “làm đẹp cả những cảnh thật ra chỉ tầm thường xấu xa”. Quan điểm của anh đúng đắn lắm ! Tư tưởng của anh tiến bộ lắm ! Thế nhưng, trong sáng tác của mình anh đã viết những gì ? Anh đã cho ra đời những sáng tác như thế nào ? Anh không hướng nghệ thuật vào “thứ văn chương của bọn nhàn rỗi”; anh không biết để cho những cô gái áo xanh, áo đỏ tha thướt đọc, nhưng anh viết những gì từ khi anh bắt tay vào sáng tác?
Chao ôi ! Anh đã viết những bài mà thậm chí khi đọc thấy tên của mình dưới bài viết, anh phải “đỏ mặt” xấu hổ. Anh giận dữ với chính anh. Anh khinh ghét những tác phẩm chỉ biết “gợi những tình cảm rất nhẹ rất nông bằng một thứ văn quá ư bằng phẳng dễ dãi” của chính mình. Dường như anh hoảng hốt, anh ngạc nhiên trước những bài viết của mình mới ra đời. Anh dằn vặt ghê gớm. Anh muốn nhưng có phải bao giờ ý muốn cũng thành viện thực đâu ! Và đó chính là cái bi kịch của anh – bi kịch của một đời viết văn – bi kịch của người hiểu mình biết mình phải làm gì và đành lựa bút theo những điều mình chẳng hề muốn. Tôi cảm thấy cái đau đớn khủng khiếp tự chốn sâu thẳm của tâm hồn anh. Một cái gì đó bỗng chốc sụp đổ trong anh. Đấy chính là sự sụp đổ của một khát vọng đẹp và chân chính.
Anh phải ẩu như thế, bôi bác như thế cũng chính là vì những ràng buộc của “áo cơm”. Chao ôi ! Giá như anh đựơc bay nhảy với những giấc mơ ấy !
Nhưng “cơm áo không đùa với khách thơ” (Xuân Diệu). Anh còn vợ và một đàn con nhỏ. Kiếp người với bao toan tính bộn bè níu kéo anh, không cho anh bay lên cùng giấc mộng của đời trai trẻ. Chính nỗi lo về tiền bạc đã buộc anh phải viết những bài trái với lương tâm và trách nhiệm. Trong đầu anh luôn quay cuồng với những tính toán về giá cả sinh hoạt, về bữa ăn hằng hàng… thì đâu còn chỗ cho văn chương nữa. Anh phải viết thật nhanh, thật nhiều để người vợ, đàn con và chính anh khỏi chết đói. Giá như anh cứ bỏ dứt cái mộng văn chương thì chắc đời anh chẳng khốn đốn đến thế ! Nhưng anh cần nghĩ tới tác phẩm của anh – các tác phẩm cho toàn nhân loại nên anh lại càng đau đớn ! Nước mắt anh không chảy nhưng đớn đau thì chồng chất tập trung hơn.
Chao ôi ! “Đau đớn thay cho những kiếp sống muốn cất cánh bay cao nhưng lại bị áo cơm ghì sát đất” (Sống mòn). Đó chính là bi kịch của cuộc đời viết văn của anh – bi kịch của những giấc mộng văn chương chính là ở chỗ đó ! Và tưởng như giấc mộng văn chương ấy chính là điều day dứt trong anh mãi không thôi.
Phải có những hiểu biết sâu sắc về tâm tư tình cảm con người thì Nam Cao mới viết được những dòng đầy cảm xúc như thế ! Dường như những day dứt trong cuộc đời ông – cuộc đời văn sĩ khổ ải – đã nhập vào những suy tư của Hộ, đã nhập vào tấn bi kịch tinh thần của Hộ. Có người nói, Hộ chính là hình ảnh của nhà văn Nam Cao thời kì trước Cách mạng. Tôi không hoàn toàn nghĩ thế. Nam Cao đã có thể bị cơm áo ghì chặt nhưng Nam Cao hơn hẳn Hộ; ông đã biết vượt lên trên những lo toan ấy để biến giấc mơ thành hiện thực. Ông đã viết những lời văn hay nhất, đẹp nhất về cuộc đời những kiếp lầm than và chắc chắn Nam Cao không phải đỏ mặt khi thấy tên mình sau những tác phẩm như Chí Phèo, Đời thừa… Bởi chính đó là giấc mơ văn chương nẩy nở.
Có thể tự tin mà nói rằng với Đời thừa, Nam Cao đã bộc lộ được tư tưởng nhân đạo mới mẻ, độc đáo của mình khi viết những dòng bi kịch về Hộ. Kinh nghiệm và vốn sống đã cho ông viết những điều có sức rung động, lay chuyển lòng người đến thế! Đó chính là nhờ tư tưởng nhân đạo mới mẻ, độc đáo của nhà văn Nam Cao. Nhân đạo ở sự ca ngợi khát vọng đẹp đẽ của Hộ, nhân đạo ở sự cảm thông sâu sắc với ngừoi tri thức… Và viết lên được những dòng như thé cũng là nhờ cái nhân đạo “mới mẻ” độc đáo của Nam Cao. Qua bi kịch tinh thần đầu tiên này của Hộ, Nam Cao đã bộc lộ được sự cảm thông, trân trọng bao kiếp người lao khổ trong cuộc đời này. Và phải chăng tư tưởng ấy đã kế thừa được của cha ông lòng nhân đạo truyền thống. Nhà văn không “phản ánh để phản ánh” mà sau những câu chữ tưởng như lãnh đạm, thờ ơ chính là một trái tim nhiệt thành, sôi nổi – một trái tim của tình nghĩa.
Advertisements (Quảng cáo)
Bi kịch đầu tiên của cuộc đời nhà văn Hộ và đó cũng là nguyên nhân cho bi kịch thứ hai – bi kịch của một con người. Giấc mộng văn chương sụp đổ qua những bài viết ẩu. Thế nhưng Hộ vẫn còn chút an ủi. Đó chính là cuộc sống, sự tồn tại của vợ con anh. Anh chưa thực hiện đuợc khát vọng của mình – anh chưa viết được cuốn tiểu thuyết của đời anh, nhưng anh nuôi đủ vợ con. Anh đã kéo dài đươc sự tồn tại của gia đình mình. Và đó có thể goi là việc làm hữu ích. Đó cũng là cái an ủi cho cái “đời thừa” của một nhà văn. Thế cũng đáng an ủi lắm chứ !
Vì anh là người đặt “tình thương” lên hàng đầu, lẽ sống của anh là tình thương. Tình thương là trên hết. Chính trong lời khẳng định về tác phẩm trong tương lai của mình, anh đã nói: tác phẩm có giá trị là tác phẩm “ca tụng lòng tương, tình bác ái, sự công bình”. Trong văn chương, anh muốn ca ngợi tình thương và trong cuộc đời thực, tình thương là tất cả. Chính vì lẽ sống tình thương của mình, anh đã đón Từ, giúp Từ thoát khỏi những tủi nhục khi một mình trơ trọi với đứa con không cha. Những giọt nước mắt của Từ và của bà mẹ già của Từ đã khiến anh xúc động. Họ muốn khóc cho đến khi “bao nhiêu xương thịt cứ tan ra thành nước mắt” nhưng gặp anh, tình thương của anh đã toả rạng đến giúp họ thoát khỏi những đớn đau. Một người dám bỏ cái đời bay nhảy của tuổi xanh để nuôi nấng vợ con chẳng là người dũng cảm lắm sao ! Chính tình thương – lẽ sống tình thương đã khiến anh làm việc ấy. Anh cao đẹp quá !
Đời anh không phải là “đời thừa” với gia đình nho nhỏ của anh. Anh đau khổ vì tên anh cứ “lu mờ dần sau những tên khác mới xuất hiện rực rỡ” nhưng với Từ và đàn con – anh là biểu tượng sáng chói của tình thương. Tình thương ấy là rất đáng trân trọng. Trong một xã hội rác rưởi “chó đểu” như thế, thành động của anh chẳng là một hành động tốt đẹp hiếm hoi hay sao ? Thế nhưng, anh cũng chẳng giữ đựơc trọn vẹn cái lẽ sống cao quý ấy của mình nữa. Quả là một sai lầm khi anh kết luận: nguyên nhân trực tiếp cho sự sụp đổ các giấc mộng văn chương chính là vợ anh và đàn con nheo nhóc kia. Anh cạn nghĩ quá ! Đó không phải hoàn toàn là lỗi của vợ con anh. Thất vọng trong văn chương, buồn chán trong không khí gia đình đã khiến nah tìm niềm vui trong men rượu. Anh muốn quên, quên đi tất cả.
Anh không say trong men tình ái, trong khúc nhạc đong đưa… mà sau khủng khiếp trong men rượu. Chính anh cũng không hiểu tại sao anh về được đến nhà. Anh chỉ biết anh đã tỉnh dậy trên giường nhà mình khi tay chân rã rời. Men rượu “chết tiệt” ấy chính là cái trực tiếp làm cho bi kịch trong anh xuất hiện. Rượt đã khiến anh trở thành kẻ vô học, rượu đánh đồng loạt những người xấu, người tốt, kẻ giàu, người nghèo trong những cơn say. Khi say, ai cũng như ai hết ! Men rượu của anh không giúp anh có được cái tình của Chí Phèo giúp hắn hướng về cái “thiên lương”. Men rượu đã khiến anh trở thành một kẻ tiểu nhân vô học. Anh đã vi phạm lẽ sống tình thương của mình. Anh đã đánh vợ chon anh như một kẻ vũ phu. Vâng, chính lúc đó anh là kẻ vũ phu. Anh đã đánh đập vợ, người vợ hiền lành tận tuỵ của mình không biết bao nhiêu lần nữa mà kể. Anh chỉ mặt Từ mà quát mắng:
- “Cả con mẹ mày nữa cũng đáng vật chết”. Anh đã làm tất cả, tất cả trong say. Sao mà tai hại quá ! Anh đã vi phạm lẽ sống của mình, vi phạm cái tốt đẹp – cái phần “người” vô cùng cao đẹp tưởng còn được an ủi bởi anh đã giữ trong lẽ sống tình thương của mình. Ai ngờ, cuộc sống vẫn không cho phép anh thực hiện điều đó. Thế mà nay, chính cái lẽ sống ấy anh cũng chà đạp nốt. Anh – cuộc sống đời anh quả là “đời thừa”. Bi kịch đầu tiên là bi kịch của những giấc mộng văn chương nên cái “thừa” còn không quá nhiều đau đớn như bi kịch này, bi kịch mà kết cục là cái “thừa” ấy của anh đã được được thể hiện đầy đủ. Anh đã động đến phần cao quý nhất. Đó là bi kịch tinh thần của một con người mà đau đớn hơn, đó lại là con người ý thức được phẩm giá nhân cách của mình nhiều nhất. Ở bi kịch trước, cái mặc cảm tội lỗi trong anh rất lớn vì anh là một nhà văn.
Nếu Chí Phèo chỉ gieo rắc tội lỗi của hắn cho dân làng Vũ Đại, anh giáo Thứ chỉ truyền thụ sự chán nản lên đầu học sinh thì anh – anh gieo những “tình cảm rất nhẹ, rất nông” những tình cảm qua ư tầm thường ấy vào bao nhiêu độc giả. Sự nhiễm hại ấy lớn hơn. Dù thế bi kịch thứ hai này – bi kịch của một người mặc cảm tội lỗi còn lớn hơn nhiều.Với tư cách của một nhà văn anh đã gây ảnh hưởng đến người đọc từ những bài văn viết lấy lợi nhuận. Với tư cách của một con người, anh đã gây ra những điều ghê gớm hơn. Xã hội này đã quá nhiều, quá thừa những cái xấu. Anh cố giữ tốt đẹp trong mình thế mà anh cũng phá hỏng nốt. Mặc cảm này quá lớn và không hề có gì để an ủi được. Lẽ sống tình thương là cái được anh đề cao nhất mà anh còn vi phạm thì chẳng còn gì nữa cả. Bi kịch này của anh, lớn hơn gấp bội bi kịch kia bởi lẽ sống tình thương, chỗ dựa của bao giá trị nhân phẩm khác sụp đổ.
Bi kịch này khủng khiếp và hoàn toàn không có lối thoát và dường như nó bao trùm thành bi kịch của cả đời anh – một “đời thừa”. Anh đổ lỗi tất cả cho gia đình, nhưng tất cả là tại anh. Tuy vậy cũng cần nói thêm rằng, bi kịch ấy có nguyên nhân sâu xa chính từ xã hội đương thời. Chính xã hội ấy đã đẩy anh phải lo “cơm áo gạo tiền”. Nỗi lo sinh kế đã khiến anh phải từ bỏ giấc mộng văn chương. Và chính những thất vọng ấy đã khiến anh chà đạp lên lẽ sống tình thương của mình. Nguyên nhân ấy có lẽ anh không hiểu được – nguyên nhân của xã hội thực dân nửa phong kiến – nguyên nhân mà ngày ấy người ta đã nhận ra. Anh chưa tìm được lối thoát cho sự bế tắc. Đó là cái bế tắc của thời đại mà anh đang sống.
Nhưng đó phải chăng là nét hạn chế trong tư tưởng nhân đạo của Nam Cao ? Ông đã biết đề cao những khát vọng đẹp của người trí thức, đã biết thông cảm với những nổi khổ của họ nhưng chưa đề ra được lối thoát cho họ. Nhưng những “tư tưởng nhân đạo mới mẻ, độc đáo” ấy đã là đáng quý, đáng trân trọng biết bao ! Độc đáo, mới mẻ chính là ở lòng thương người – tình người nồng đượm bao la đằng sau lối viết văn tưởng như dửng dưng lãnh đạm.
Ngày nay cuộc đời đã được đổi thay. Lớp văn sĩ đã thoát khỏi dù là một phần những nỗi lo “cơm áo” không còn những bi kịch tinh thần như Hộ nữa. Nhà văn ngày nay được ưu đãi hơn. Chúng ta không thể quên thời kỳ mà người trí thức văn nghệ sĩ mang những bi kịch tinh thần.Tư tưởng nhân đạo mới mẻ, độc đáo của Nam Cao đã khiến cho nhân vật dù qua bao thăng trầm vẫn đứng vững với tư cách một con người chân chính.