Nguyễn Đình Chiểu là nhà thơ lớn của đất nước ta trong thế kỷ XIX. Mắt bị mù lòa giữa thời trai trẻ, con đường công danh sự nghiệp dở dang, nhưng ông đã không chịu khoanh tay trước những bất hạnh cay đắng. Ông đã mở trường dạy học, làm thầy thuốc săn sóc sức khỏe của nhân dân, viết văn làm thơ, tiếng tăm lừng lẫy, trở thành ngôi sao sáng trong nền văn nghệ Việt Nam cuối thế kỉ XIX.
Tên tuổi Nguyễn Đình Chiểu gắn liền với những truyện thơ đậm đà màu sắc cổ điển như Truyện Lục Vân Tiên, truyện Ngư Tiều y thuật vấn đáp... Đỉnh cao về tư tưởng và nghệ thuật của Nguyễn Đình Chiểu là những bài văn tế, những bài thơ yêu nước như Chạy giặc, Xúc cảnh, Văn tế Trương Công Định, Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc, v.v...
Đánh giá giá trị các tác phẩm của Nguyễn Đình Chiểu trong những năm thực dân Pháp xâm lược Nam Bộ, có ý kiến khẳng định: “Sáng tác của ông sống dậy và hướng tới chúng ta như những bài ca yêu nưóc...
Nếu các trụyện thơ Truyện Lục Vân Tiên, Ngư Tiều y thuật vấn đáp sáng ngời tư tưởng nhân nghĩa cao đẹp thì những bài văn tế, những bài thơ như “Chạy giặc “đã làm “sống dậy và hướng tới chúng ta như những bài ca yêu nước...”. Thơ, văn tế của Nguyễn Đình Chiểu “ca ngợi những người anh hùng suốt đòi tận trung với nước, và than khóc những người liệt sĩ đã trọn nghĩa với dân. Ngòi bút, nghĩa tình, tâm hồn trượng nghĩa của Nguyễn Đình Chiểu đã diễn tả thật là sinh động và não nùng, cảm tình của dân tộc đôí với người chiến sĩ của nghĩa quân vốn là người nông dân, xưa kia chỉ quen cày cuốc, bỗng chốc trở thành người anh hùng cứu nước.” (Phạm Văn Đồng).
Khi Tổ quốc bị xâm lăng “súng giặc đất rền”, những người áo vải chân đất “dân ấp dân lân” đã quật khởi đứng lên đánh giặc với ý chí căm thù sôi sục:
Bữa thấy bòng bong che trắng lốp, muốn tới ăn gan,
Ngày xem ống khói chạy đen sì muốn ra cắn cổ.
Họ đánh giặc là để bảo vệ "tấc đất ngọn rau”, để giữ lấy “bát cơm manh áo ở đời”. Vì thế, chỉ một lưỡi dao phay, một gậy tầm vông cũng ào ào xung trận. Tư thế chiến đấu vô cùng hiên ngang lẫm liệt:
Hỏa mai đánh bằng rơm con cúi, cũng đốt xong nhà dạy đạo kia,
Gươm đeo dùng bằng lưỡi dao phay, cũng chém rớt đầu quan hai nọ.
(Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc)
Đất nước quê hương bị giặc Pháp giày xéo, tuy bị mù lòa, ông vẫn dùng ngòi bút và tấm lòng tham gia đánh giặc. Ông gọi lòng trung nghĩa của mình là “lòng đaọ chung thủy, sắt son, sáng ngời:
Sự đời thà khuất đôi tròng thịt,
Lòng đạo xin tròn một tấm gương.
Có thể nói, những câu văn, vần thơ của Nguyễn Đình Chiểu chứa chan tinh thần yêu nước, đã làm "sống dậy và hướng tới chúng ta như những bài ca yêu nước”. Vì thế mà niềm mơ ước của ông cũng là niềm mơ ước của hàng triệu người Việt trong thế kỷ qua:
Chừng nào thánh đế ân soi thấu,
Một trận mưa nhuần rửa núi sông.
(Xúc cảnh)
Bài thơ Chạy giặc là một bài ca yêu nước chống xâm lăng. Năm 1859. thực dân Pháp nổ súng tấn công thành Gia Định. Đất nước rơi vào thảm họa - Nguyễn Đình Chiểu viết bài thơ Chạy giặc bằng thể thơ thất ngôn bát cú Đường luật ghi lại sự kiện bi thảm này.
Hai câu đề nói lên thời cuộc và thế nước. Giặc Pháp tấn công thành Gia Định vào lúc "tan chợ”:
Tan chợ vừa nghe tiếng súng Tâỵ,
Một bàn cờ thế phút sa tay.
Cảnh họp chợ, cảnh tan chợ là nhịp sống yên bình của nhân dân ta. Tiếng súng Tây bất ngờ nổ rền trời đã làm cho nhịp sống ấy bị đảo lộn. Cảnh chiến tranh đã bắt đầu. “Một bàn cờ thế” là hình ảnh ẩn dụ nói về thời cuộc, về cuộc chiến giằng co, ác liệt. Ba tiếng “phút sa tay” trong câu thơ "Một bàn cờ thế phút sa tay” nói lên sự thất thủ của quân triều đình tại thành Gia Định diễn ra quá nhanh chóng. Hai câu thơ đầu như một thông báo về sự kiện lịch sử bi thảm diễn ra vào năm 1859. Đằng sau câu thơ là nỗi lo lắng và kinh hoàng của nhà thơ trước thảm họa quê hương đất nước thân yêu của mình bị giặc Pháp chiếm đóng và giày xéo.
Advertisements (Quảng cáo)
Hai câu trong phần thự đối nhau, phép đảo ngữ được vận dụng sắc sảo: Vị ngữ “bỏ nhà” và “mất ổ” được đặt lên đầu câu thơ nhằm nhấn mạnh nỗi đau thương tang tóc của nhân dân ta khi giặc Pháp tràn tới:
Bỏ nhà lũ trẻ lơ xơ chạy,
Mất ổ, đàn chim dáo dát bay.
Nếu viết “Lũ trẻ bỏ nhà lơ xơ chạỷ’ và "Đàn chim mất ổ dáo dát bay” thì ý vị câu thơ và giá trị biểu cảm sẽ không còn gì nữa! Cặp từ láy “lơ xơ “ và “dáo dát’” gọi tả sự hoảng loạn và kinh hoàng đến cực độ. Cảnh trẻ con lạc đàn, chim vỡ tổ là hai thi liệu chọn lọc, điển hình theo cách nói của dân gian tả cảnh chạy giặc vô cùng thảm thương.
Hai câu luận, ý thơ được phát triển và mở rộng. Tác giả lên án tội ác của giặc Pháp càn quét, đốt nhà, giết người, cướp của tàn phá quê hương. Phép đối và đảo ngữ được vận dụng sáng tạo. Nhà thơ không viết: "Của tiền Bến Nghé tan bọt nước” và “ Tranh ngói Đồng Nai nhuốm màu mây” mà viết:
Bến Nghé của tiền tan bọt nước,
Đồng Nai tranh ngói nhuốm màu mây.
Câu thơ đã vẽ lên một vùng địa lý bao la và trù phú (Bến Nghé, Đồng Nai) phút chốc biến thành đống tro tàn. Bến Nghé, Đồng Nai trong thế kỷ XIX vốn đã là vựa lúa và nơi buôn bán sầm uất trên bến dưới thuyền thế mà đã bị giặc Pháp cướp phá tan hoang. Tiền của, tài sản của nhân dân ta bị giặc cướp phá sạch ‘’tan bọt nước” Nhà cửa xóm làng quê hương nhà thơ bị đốt cháy, lửa khói nghi ngút “nhuốm màu mây” . Hai hình ảnh so sánh “ Tan bọt nước” và “nhuốm màu mây” là cách nói cụ thể của dân gian đặc tả cảnh điêu tàn do giặc Pháp gây ra.
Có thể nói hai cặp câu trong phần thực và phần luận là tiếng nói căm thù của nhà thơ lên án tội ác giăc Pháp xâm lược. Người đọc cảm nhận một cách sâu sắc bài thơ Chạy giặc đã làm "sống dậy và hướng tới chúng ta như những bài ca yêu nước... ”. Các nhà thơ Việt Nam sau này đã học tập và kế thừa Nguyễn Đình Chiểu để viết nên những vần thơ căm giận quân xâm lược:
Bỗng cuối mùa chiêm quân giặc tới
Ngõ chùa cháy đỏ những thân cau.
(Núi đôi - Vũ Cao)
Giặc về giặc chiếm đau xương máu,
Đau cả lòng sông, đau cỏ cây.
(Quê mẹ - Tố Hữu)
Trong hơn một thế kỷ qua, có biết bao xương máu của nhân dân đã đổ xuống vì bom đạn lũ xâm lược. Cho nên tiếng nói căm thù là cảm xúc chủ đạo của các bài thơ yêu nước.
Trở lại hai câu kết bài Chạy giặc, ta xúc động trước câu hỏi của nhà thơ:
Hỏi trang dẹp loạn rày đâu vắng,
Nỡ để dân đen mắc nạn này?
“Trang dẹp loạn”cũng là trang anh hùng hào kiệt. “Rày đâu vắng”: hôm nay, bữa nay đi đâu mà không thấy xuất hiện? Nhà thơ vừa trách móc quan quân triều đình hèn yếu, thất trận để giặc chiếm đóng quê hương, vừa mong đợi người anh hùng tài giỏi ra tay đánh giặc để cứu nươc cứu dân thoát khỏi cảnh lầm than. Câu thơ chứa đựng biết bao tình yêu thương của Nguyễn Đình Chiểu đối với nhân dân đang quằn quại trong bom đạn giặc! Chạy giặc là bài ca yêu nước mở đầu cho thơ văn yêu nước của dân tộc ta từ cuối thế kỷ XIX.
Bài thơ Chạy giặc được viết bằng một thứ ngôn ngữ bình dị, dân dã đậm đặc màu sắc Nam Bộ (lũ trẻ lơ xơ, ổ, dáo dát, tan bọt nước, nhuốm màu mây, rày, nỡ, dân đen). Phép đối, phép đảo ngữ, ẩn dụ so sánh là những biện pháp nghệ thuật được tác giả vận dụng sáng tạo để viết nên những vần thơ hàm súc, biểu cảm.
Chạy giặc là bài thơ mang giá trị lịch sử to lớn. Nó ghi lại sự kiện đau thương của đất nước ta cuối thế kỷ XIX. Nó là bài ca yêu nước căm thù giặc “sống dậy và hướng tới chúng ta khát vọng độc lập, tự do”.